“Gian nan” xử lý nợ đọng thuế - có thật không?

Xử lý nợ đọng thuế đã thành vấn đề lớn từ hàng chục năm nay với việc Bộ Tài chính liên tục đề xuất những giải pháp hoặc đề nghị sửa đổi luật lệ liên quan đến quản lý thuế, còn báo chí thì giật những tít mà chỉ nghe thôi đã thấy rõ sự bế tắc, như “Gian nan xử lý nợ đọng thuế”.
PHAN MINH NGỌC
05, Tháng 07, 2018 | 10:20

Xử lý nợ đọng thuế đã thành vấn đề lớn từ hàng chục năm nay với việc Bộ Tài chính liên tục đề xuất những giải pháp hoặc đề nghị sửa đổi luật lệ liên quan đến quản lý thuế, còn báo chí thì giật những tít mà chỉ nghe thôi đã thấy rõ sự bế tắc, như “Gian nan xử lý nợ đọng thuế”.

2a35b_gian_nan_xu_ly_no_dong_thue_600

 Trách nhiệm của ngành thuế là phải phân loại từng khoản nợ đọng thuế như cách ngành ngân hàng phân loại nợ xấu, để có giải pháp xử lý thích hợp. Ảnh: Mai Lương

Cắc cớ cái cớ!

Tại sao lại có sự “gian nan” này? Một trong những lý do, căn cứ mà Bộ Tài chính thường xuyên đưa ra để biện minh cho việc để phát sinh và tồn đọng nợ thuế là người kinh doanh thua lỗ, ngừng kinh doanh, hoặc giải thể, nhất là trong giai đoạn kinh tế đi xuống từ năm 2007-2012, nên không có khả năng thu hồi thuế (nợ đọng).

Giải thích trên nghe rất hợp lý. Nhưng hãy thử “diễn nôm” việc ai đó nợ thuế nhà nước thành chuyện nợ nần dân sự. Tuy tôi nợ anh nhưng vì tôi khó khăn, hết tiền nên tôi không thể trả anh được. Do đó, tốt nhất là anh quên món nợ này của tôi đi, vì dù anh có nhớ, có cố gắng đòi thì tôi cũng không trả và/hoặc không muốn, không thể trả được! 

Đương nhiên là không có chủ nợ nào lại có thể cả tin, dễ dàng buông xuôi trước con nợ như vậy cả! Vì vậy, họ sẽ phải vận dụng nhiều cách đòi nợ khác nhau, từ ôn hòa như vận động, thuyết phục, van nài, kể khổ… đến những biện pháp cứng rắn hơn, gồm biện pháp pháp lý là thuê công ty đòi nợ thuê, kiện ra tòa, và cả những biện pháp bất hợp pháp như đe dọa, thuê “đầu gấu”, chiếm giữ tài sản của con nợ…

Trở lại chuyện nợ đọng thuế, với chủ nợ là Nhà nước, đại diện là cán bộ thuế của Bộ Tài chính. Thử hỏi họ đã ráo riết, “quyết liệt” xử lý chuyện nợ đọng thuế như thế nào? Câu trả lời là khá thất vọng.

Ví dụ, một bản tin hồi tháng 3-2015 nói rằng Tổng cục Thuế vừa ban hành văn bản hướng dẫn Cục Thuế Khánh Hòa về cưỡng chế thuế với người nợ tiền thuế quá 90 ngày(1). Điều này có nghĩa là bất chấp tình hình nợ đọng thuế ngày càng gia tăng trong vòng hơn chục năm qua, nhưng mãi đến năm 2015 ngành thuế vẫn chưa có giải pháp cưỡng chế thuế thống nhất trong toàn quốc. Nói cách khác, việc xử lý nợ đọng thuế từ trước đến nay hầu như vẫn mạnh ai người đó làm, không được quy định và hướng dẫn một cách đầy đủ, thống nhất thành luật. 

Chưa hết, nếu có tra cứu thêm thông tin về các trường hợp người nợ đọng thuế bị cưỡng chế thuế, bị truy tố vì tội chây ỳ không nộp thuế trên cả nước thì kết quả cũng khá nghèo nàn, chứng tỏ ngành thuế chưa cứng rắn, mạnh tay “quyết liệt” xử lý nợ đọng thuế như họ lẽ ra đã phải làm.   

Những giải pháp “rắn” đã vậy, còn về những giải pháp “mềm” thì mãi cho đến gần đây mới nghe thấy một địa phương là Hà Nội đề xuất áp dụng giải pháp mời người nợ thuế lên cơ quan thuế để “động viên” họ nộp thuế, trên cơ sở “lắng nghe, chia sẻ, tháo gỡ khó khăn cho người nộp thuế”(2) . Lưu ý thêm đây cũng chỉ mới là đề xuất. 

Như vậy, qua những tóm tắt ở trên có thể thấy ngành thuế đã rất chậm trễ và không làm tròn trách nhiệm “đòi nợ” cho ngân khố quốc gia nên nguyên nhân của nạn gia tăng thuế nợ đọng chủ yếu là có tính chủ quan chứ không phải khách quan (khủng hoảng kinh tế, người kinh doanh khó khăn, phá sản, đóng cửa…) như Bộ Tài chính thường biện giải.

Hãy cứ làm tròn trách nhiệm!

Để xử lý thành công nợ đọng thuế thì trước hết và quan trọng nhất là ngành thuế phải làm tròn, làm tốt trách nhiệm thu thuế của mình, thay vì đổ lỗi cho khách quan rồi đề xuất xóa nợ thuế.

Phân tích ở trên cho thấy để xử lý thành công nợ đọng thuế thì trước hết và quan trọng nhất là ngành thuế phải làm tròn, làm tốt trách nhiệm thu thuế của mình, thay vì đổ lỗi cho khách quan rồi tự “giải cứu” cho mình bằng cách liên tục đề xuất xóa nợ thuế.

Cụ thể hơn, đành rằng có thể có nhiều nguyên nhân bất khả kháng dẫn đến tình trạng mất khả năng trả thuế, nhưng không vì thế mà cho rằng mọi trường hợp nợ đọng thuế đều đáng, đều cần được xóa nợ thuế. Trách nhiệm của ngành thuế là phải phân loại từng khoản nợ đọng thuế như cách ngành ngân hàng phân loại nợ xấu, để có giải pháp xử lý thích hợp.

Với những trường hợp chây ỳ, ngành thuế trước hết cần tiến hành tất cả các biện pháp cưỡng chế, kể cả chuyển cơ quan chức năng truy tố tội trốn, không nộp thuế. Chừng nào chưa thực hiện tất cả những biện pháp này để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật thì chừng đó ngành thuế chưa có cơ sở để kết luận rằng khoản nợ thuế này “không có khả năng thu hồi” để đề xuất xóa nợ thuế được. 

Với trường hợp nợ thuế vì lý do “khách quan” như kinh doanh khó khăn, đóng cửa, phá sản… thì trước hết vẫn cần phải truy trách nhiệm của cán bộ thuế bởi đã không đôn đốc người có nghĩa vụ nộp thuế phải trả thuế đúng hạn, để đến lúc con nợ ngừng kinh doanh, đóng cửa, phá sản thì lại “dán nhãn” cho món nợ này thành “không có khả năng thu hồi” rồi đề xuất xóa nợ. Cũng không loại trừ động cơ tư lợi của cán bộ thuế trong những trường hợp này. Do đó, quy trách nhiệm cho cán bộ thuế cũng là một động thái cần thiết để ngăn ngừa nợ đọng thuế tiếp tục phát sinh như đang chứng kiến hiện nay, dù không còn chuyện “khủng hoảng” hay “kinh tế khó khăn” để mà đổ lỗi như trước nữa. 

Quan trọng không kém là xử lý nợ đọng thuế cần tránh dẫn đến đề xuất tăng thêm nhân lực (và cơ sở vật chất) cho ngành thuế với lý do là “làm không xuể”, không đủ người để theo dõi, đôn đốc trả nợ thuế. Bên cạnh chuyện ngành thuế đang quá dư thừa biên chế đến mức phải giải thể, sáp nhập các chi cục thuế ở một số địa phương, phân tích ở trên còn cho thấy có những nguyên nhân chủ quan gây ra nợ đọng thuế gia tăng không nằm ở chuyện có đủ nhân lực cho ngành thuế hay không. Nói cách khác, tăng thêm bộ máy cho ngành thuế mà vẫn giữ nguyên cách làm chậm trễ, nửa vời, không “quyết liệt” như cũ thì nợ đọng thuế vẫn là vấn đề kinh niên, ngày càng khó giải quyết.

Theo The Saigontimes

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24610.00 24930.00
EUR 26213.00 26318.00 27483.00
GBP 30551.00 31735.00 31684.00
HKD 3105.00 3117.00 3219.00
CHF 27051.00 27160.00 28008.00
JPY 159.87 160.51 167.97
AUD 15844.00 15908.00 16394.00
SGD 18015.00 18087.00 18623.00
THB 664.00 667.00 694.00
CAD 17865.00 17937.00 18467.00
NZD   14602.00 15091.00
KRW   17.66 19.27
DKK   3523.00 3654.00
SEK   2299.00 2389.00
NOK   2259.00 2349.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ