Vì sao hàng loạt 'đại gia' điện gió phải giảm 70-80% công suất?

Nhàđầutư
Theo ông Hồ Tá Tín, Chủ tịch Tập đoàn HBRE, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng khá nặng nề khiến hàng loạt "đại gia" điện gió phải giảm 70-80% công suất, trong khi thời gian ưu đãi giá sắp hết hạn.
PHƯƠNG LINH
30, Tháng 10, 2020 | 07:32

Nhàđầutư
Theo ông Hồ Tá Tín, Chủ tịch Tập đoàn HBRE, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng khá nặng nề khiến hàng loạt "đại gia" điện gió phải giảm 70-80% công suất, trong khi thời gian ưu đãi giá sắp hết hạn.

Theo số liệu của Bộ Công Thương, hiện cả nước đã có 187 dự án nhà máy điện gió với tổng công suất khoảng 11.687 MW và 137 dự án điện mặt trời với tổng công suất 13.618 MW đã được bổ sung quy hoạch; 312 dự án điện gió với tổng công suất 78.035 MW và 331 dự án điện mặt trời với công suất 336.581 MW đang được các địa phương đề xuất phát triển.

Trên thực tế, từ vài năm trở lại đây việc đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo (NLTT) đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thống kê của Viện nghiên cứu của BIDV cho thấy, nếu năm 2016 tổng công suất lắp đặt năng lượng tái tạo mới đạt khoảng 303 MW thì năm 2020 tổng công suất ước tăng gấp hơn 20 lần, đạt khoảng 7.000 MW.

Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của các viện nghiên cứu độc lập, cũng như phản ánh của các nhà đầu tư, đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo hiện đang gặp không ít khó khăn vướng mắc.

Ho-ta-tin

Ông Hồ Tá Tín, Chủ tịch Tập đoàn HBRE

Đầu tư bền vững và dài hạn cho lĩnh vực năng lượng tái tạo

Tại tọa đàm "Góp ý cơ chế, chính sách phát triển năng lượng tái tạo" do Tạp chí Nhà đầu tư/Nhadautu.vn tổ chức sáng 29/10, ông Đỗ Đức Quân, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho hay, thực tế phát triển các nguồn năng lượng tái tạo thời gian vừa qua cho thấy, nếu có cơ chế chính sách phù hợp để phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, chúng ta hoàn toàn có thể đạt được những mục tiêu đặt ra không mấy khó khăn, giúp ngành điện huy động được lượng vốn đầu tư rất lớn từ lĩnh vực tư nhân, giảm áp lực vốn đầu tư vào các công trình nguồn, đồng thời hướng dòng vốn của EVN đầu tư vào các dự án với mục đích cải thiện chất lượng cung cấp điện.

Trong khoảng thời gian chưa đầy 2 năm, số lượng dự án điện mặt trời đưa vào vận hành đã tăng từ vài dự án lên tới 100 dự án với tổng công suất từ vài trăm MW lên tới 5.829 MW, đưa công suất đặt các dự án điện mặt trời từ chỗ chỉ chiếm gần 1% nay đã đạt gần 9% tổng công suất đặt hệ thống.

Ông Đỗ Đức Quân cho biết, mặc dù tiềm năng lớn nhưng các loại hình năng lượng tái tạo còn lại vẫn chưa phát triển hết mức. Cụ thể, điện sinh khối chỉ có 378 MW/ tổng tiềm năng 13,7 GW; điện rác hiện có 10 MW/ tổng tiềm năng 1 GW.

Theo Phó Cục trưởng Đỗ Đức Quân, nhiều văn bản chỉ đạo có vai trò kim chỉ nam đã được đưa ra nhằm thúc đẩy ngành năng lượng tái tạo phát triển mạnh mẽ, với định hướng tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo vào các năm 2030 và 2045 dự kiến đạt lần lượt khoảng 30% và 43% tổng điện năng sản xuất toàn quốc.

Tuy nhiên, để tiếp tục thu hút được các nhà đầu tư, các tổ chức trong và ngoài nước tham gia phát triển năng lượng tái tạo, vẫn cần có những cam kết mạnh mẽ, những cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư bền vững và dài hạn cho lĩnh vực này từ Chính phủ nhằm tạo sự tin tưởng từ các nhà đầu tư.

Hàng loạt "đại gia" điện gió phải giảm 70-80% công suất vì COVID-19

Phát biểu tại tọa đàm, Chủ tịch Tập đoàn HBRE Hồ Tá Tín nhận định, Việt Nam được đánh giá là quốc gia giàu tiềm năng về NLTT nhưng việc khai thác NLTT ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh được thiên nhiên ưu đãi.

Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là các rào cản liên quan tới cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện, nguồn vốn và năng lực phát triển dự án của nhà đầu tư,… đã hạn chế việc triển khai các dự án NLTT để đưa nguồn điện vào sử dụng trên thực tế.

Theo ông Tín, tỷ lệ các dự án NLTT đi vào vận hành chỉ đạt khoảng 32% đối với điện mặt trời và chỉ khoảng 3,8% đối với dự án điện gió trên tổng số dự án được bổ sung quy hoạch, con số đã “nói” lên được thực trạng triển khai dự án NLTT trên thực tế không phải dễ dàng và hầu hết các dự án hiện nay chỉ nằm trên giấy, nguy cơ xảy ra quy hoạch “treo” là hiện hữu nếu không có giải pháp kịp thời và hữu hiệu.

Chủ tịch tập đoàn HBRE chỉ ra những hạn chế của ngành công nghiệp này. Thứ nhất, mặc dù nguồn nguyên liệu cho điện gió tại Việt Nam khá lớn, nhưng đi kèm với rủi ro là thiên tai. Thứ hai, nhà máy điện gió cần vốn lớn, nhưng nguồn vốn trong nước vẫn hạn chế do việc vay vốn tại các ngân hàng khó khả thi. Thực tế, hạn mức và lãi suất trong nước rất cao (10%/năm), trong khi đó đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là 4-6%.

"Vấn đề quan trọng nhất đối với các dự án điện gió là đầu ra, nằm ở cơ chế chính sách của Chính phủ, tuy nhiên do dịch COVID-19 là ảnh hưởng khá nặng nề. “Hàng loạt đại gia điện gió tại Trung Quốc buộc giảm 70-80% công suất vì COVID-19, trong khi thời gian ưu đãi giá sắp hết hạn”, ông Tín nói.

Ông Tín đề nghị, Chính phủ cần cân nhắc sớm quyết định cho phép kéo dài cơ chế giá FIT theo Quyết định 39 đến hết năm 2023 đối với điện gió trên bờ và hết 2025 đối với điện gió ngoài khơi nhằm tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư sớm triển khai đầu tư đưa các dự án điện gió đã được bổ sung quy hoạch vào vận hành, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng.

Đề xuất lựa chọn áp dụng cho một số dự án phù hợp, thuận lợi cho việc triển khai đầu tư nhanh trong các dự án đã được bổ sung quy hoạch để bổ sung nhanh nguồn điện trước nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn 2021-2025.

Đồng thời, các DN tư nhân trong nước cần hợp tác với các đơn vị nước ngoài có kinh nghiệm, bề dày lịch sử dựa trên mục tiêu hợp tác đảm bảo an ninh năng lược quốc gia và đặc biệt đảm bảo an ninh quốc phòng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ