Giá của đồng tiền

Đầu năm 2013, tôi bất ngờ nhận được cuộc điện thoại kêu cứu từ một người chưa hề quen biết ở Bình Dương. Cô sụt sùi, giọng ngắt quãng xin tôi, với tư cách một luật sư, tư vấn và giúp đỡ hai mẹ con.
TRƯƠNG THANH ĐỨC
23, Tháng 09, 2018 | 09:44

Đầu năm 2013, tôi bất ngờ nhận được cuộc điện thoại kêu cứu từ một người chưa hề quen biết ở Bình Dương. Cô sụt sùi, giọng ngắt quãng xin tôi, với tư cách một luật sư, tư vấn và giúp đỡ hai mẹ con.

photo-1-1485520030714-0-0-160-259-crop-1485520119863

Ảnh minh họa

Cô đã vay 30 triệu đồng của một “công ty tài chính tiêu dùng”. Hai mẹ con đã rất cố gắng trong nửa năm để trả gần hết 30 triệu, nhưng khoản nợ vẫn còn gần bằng số tiền gốc ban đầu. Lý do là họ phải vay với lãi suất rất cao, lên đến 6%/tháng, tức 72%/năm. Cộng với việc chậm trả nợ - chỉ cần chậm một giờ đồng hồ sang ngày hôm sau là khoản nợ bị nhảy sang nấc lãi suất khác - nên họ bị áp mức lãi suất quá hạn lên đến 108% mỗi năm. Ngoài ra, mẹ con cô còn bị tính thêm một khoản đối với phần tiền lãi chậm trả. Đây là mức lãi suất tôi chưa từng thấy trong hơn 20 năm làm trong lĩnh vực tài chính. 

Cô ấy kêu cứu không chỉ vì phải trả mức vay cắt cổ, mà còn hoảng loạn vì bị trấn áp tinh thần. Người của công ty thúc nợ quyết liệt làm cho cô và bà mẹ già sợ đến mức mất ăn, mất ngủ. Hai mẹ con nhận hàng chục cuộc gọi, nhắn tin vào tất cả các buổi sáng, trưa, chiều, tối, đêm trong ngày. Người ta còn tìm đến nhà và nơi cô làm việc để dọa dẫm.

Nghe một người nào đó mách, cô hỏi được số điện thoại và gọi cầu cứu tôi. “Tôi thấy ông viết bài về sự bất hợp lý của lãi suất”, cô nói đầy mong đợi.

Tôi giải thích cho cô ấy rằng, việc cho vay là hợp pháp, bởi cô đã tự nguyện ký vào hợp đồng vay. Và đầu tiên hãy bình tĩnh trình bày và kiến nghị với bên cho vay và với cơ quan nào có thể giúp đỡ.

Việc người dân bị rơi vào “bẫy” lãi suất ngất ngưởng như trên không còn là chuyện hiếm vài năm gần đây. Lý do cơ bản nhất, bởi các quy định liên quan đến lãi suất tiền Đồng liên tục thay đổi qua hàng chục đạo luật, mỗi lần thay đổi thì nội dung của luật mới lại khác hẳn luật cũ, nhưng những điểm vô lý vẫn không được sửa chữa, trong đó có ba Bộ luật Dân sự.

Không chỉ những quy định về lãi suất dân sự, mà cả lãi suất kết tội hình sự cũng nhảy nhót như đùa. Ví dụ, từ năm 2006 đến cuối năm 2010, mức lãi suất để kết tội “cho vay lãi nặng” (từ được dùng trong bộ luật Hình sự)  thay đổi theo từng tháng vì chạy theo sự biến động của lãi suất cơ bản.

Cách định nghĩa này khiến số “tội phạm” tăng giảm vô cùng thất thường. Nếu ngày 1/11/2010, ai cho vay lãi suất 120% mỗi năm sẽ phạm tội hình sự. Từ ngày 5/11/2010 đến hết năm 2016, con số đó là 135% mỗi năm. Trong năm 2017, mức này tăng vọt lên 200% mỗi năm. Và từ năm 2018 trở đi, nó bất ngờ giảm xuống còn một nửa, tức 100% một năm.

Vào thời kỳ xảy ra câu chuyện của người phụ nữ ở trên, lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản, tức là không được vượt quá 13,5%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, vì sự chưa thống nhất trong nhiều điều luật, các tổ chức tín dụng lại vẫn được cho vay phổ biến với mức lãi suất cao hơn, đặc biệt là cho vay tiêu dùng có thể lên đến 60% - 70%/năm.

Cùng khoảng thời gian mà khách hàng trên vay vốn tiêu dùng, thì doanh nghiệp vay vốn sản xuất, kinh doanh tại các tổ chức tín dụng phải trả lãi suất khoảng khoảng 14% - 15% mỗi năm. Nếu như doanh nghiệp không đủ điều kiện vay các tổ chức tín dụng, buộc phải đi vay vốn ở bên ngoài thì thường phải trả lãi suất cao hơn. Nhưng cũng thời điểm đó, Điều 9, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) lại quy định lãi vay không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản. Tức là chỉ có 13,5% một năm.

Cũng liên quan đến lãi suất, Điều 96, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định, trường hợp chậm trả lương thì phải trả thêm “ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố”. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước đã không còn công bố “lãi suất huy động tiền gửi” từ năm 1996, tức là đã bỏ từ 22 năm qua. 

Đến đây, tôi đoán độc giả bắt đầu thấy hoa mắt vì lãi suất. Rất ít người bình thường có thể kiên nhẫn đọc được từng kia con số và phân định được điều gì sẽ xảy ra khi mình quyết định đi vay.

Nhưng độc giả chỉ cần nắm cơ bản là, do quy định của pháp luật về trần lãi suất quá xa rời thực tế, nên tổ chức tín dụng đã liên tục phá bỏ các trần lãi suất, dựa vào nguyên tắc thoả thuận lãi suất cho vay theo cơ chế thị trường.

Và đến bây giờ, người ta vẫn còn tranh luận về trần lãi suất của Bộ luật Dân sự năm 2015, rằng nó chỉ áp đặt cho dân, hay với cả ngân hàng, tổ chức tín dụng? 

Nhiều người không khỏi thắc mắc: Nếu các các tổ chức tín dụng đúng luật, thì rõ ràng luật đã sai và ngược lại?

Vì lãi suất là giá cả của đồng tiền và đồng tiền thể hiện sức khoẻ của nền kinh tế, nên quy định trần lãi suất phải dựa vào cung cầu của thị trường. Và Bộ luật Dân sự cần phải đặt ra trần lãi suất chung cho mọi loại hình cho vay. Luật Các tổ chức tín dụng nếu có quy định khác, thì chỉ có thể là giới hạn thấp hơn, chứ không thể cao hơn mức chung.

Do vậy, theo tôi, cần sửa ngay Bộ luật Dân sự năm 2015 theo hướng, nâng trần lãi suất thực tế của ngành ngân hàng, hoặc một mức phổ biến trong xã hội. Riêng đối với tội cho vay lãi nặng, nhà nước phải ấn định cụ thể mức phạm tội, chẳng hạn là trên 100% mỗi năm. Có thế, mới biết ai cho vay lãi nặng mà xử lý.

Người phụ nữ ở trên, cuối cùng may mắn được “giải cứu”. Nhờ một đài truyền hình đưa tin nên vụ việc đã được công ty tài chính kia dàn xếp theo hướng giảm đáng kể số tiền lãi. Nhưng còn rất nhiều người dân nghèo vẫn buộc phải vay tiền của hiệu cầm đồ, thậm chí kể cả vay tín dụng đen. Họ chẳng bao giờ dựa được vào luật, cũng không biết trần lãi suất là bao nhiêu - tức giá luật định của đồng tiền mà họ sử dụng là thế nào. Họ không được quyền chọn giá đúng.

(Theo Vnexpress.net)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ