'Tăng nóng' như giá chung cư Hà Nội

Nhàđầutư
Cuối năm 2023, giá bán sơ cấp căn hộ chung cư tại TP. Hà Nội đạt ngưỡng gần 60 triệu đồng/m2. Đến thời điểm tháng 2, mức giá tiếp tục thiết lập mặt bằng mới, tăng khoảng 10-15%.
VŨ PHẠM
22, Tháng 03, 2024 | 13:56

Nhàđầutư
Cuối năm 2023, giá bán sơ cấp căn hộ chung cư tại TP. Hà Nội đạt ngưỡng gần 60 triệu đồng/m2. Đến thời điểm tháng 2, mức giá tiếp tục thiết lập mặt bằng mới, tăng khoảng 10-15%.

Hơn 20 năm sinh sống và làm việc tại Hà Nội, anh P. Nguyễn quê Thanh Hóa đang có công việc ổn định, đã có vợ cùng 3 đứa con. Tài sản tích góp của 2 vợ chồng sau thời gian làm việc vất cả ở Hà Nội chính là căn hộ chung cư cũ ở quận Đống Đa. Song nhà đông người, anh đang muốn tìm căn hộ chung cư mới với diện tích lớn hơn.

Hơn 1 năm qua, qua tìm hiểu, anh Nguyễn kể lại rằng, chưa thể tìm được căn hộ nào phù hợp với gia đình và phù hợp với mức giá anh mong muốn, khoảng từ 50 triệu đồng/m2.

"2 vợ chồng thu nhập 1 tháng được khoảng 30 triệu đồng, trừ các chi phí sinh hoạt và các khoản cho mấy đứa nhỏ đi học còn lại không nhiều. Bán lại chung cư cũ, gia đình sẽ có khoản nhất định để mua nhà mới. Nhưng, với mức giá mong muốn là khoảng 50 triệu đồng/m2, thị trường không có dự án nào có mức giá này. Nếu giá cao hơn, phải vay ngân hàng từ đó cũng tạo thêm gánh nặng cho gia đình", anh nói và cho biết, đang "đau đầu" và có thể phải gác lại việc mua nhà ở thời điểm hiện tại.

Empty

Giá chung cư ở Hà Nội liên tục tăng trong thời gian qua do thiếu nguồn cung. Ảnh: Trọng Hiếu

Thực tế, thời gian qua, giá căn hộ chung cư Hà Nội đã tăng 20 quý liên tiếp theo báo cáo của Savills Việt Nam, đạt ngưỡng gần 60 triệu đồng/m2. Việc giá căn hộ liên tục tăng cao khiến việc sở hữu nhà ở tại Hà Nội ngày càng trở nên khó khăn đối với đại đa số người dân.

Trong khi đó, số liệu của Batdongsan.com.vn cũng cho thấy, giá chung cư Hà Nội tháng 2 lại tiếp tục tăng nóng trong bối cảnh nguồn cung khan hiếm.

Đơn cử như tại dự án Gemek, huyện Hoài Đức, giá bán các căn 2 PN từ mức giá trung bình là 2,2 tỷ/căn thời điểm cuối năm 2023, hiện giá chào bán đang ở mức 2,5-2,6 tỷ đồng/căn. Dự án The Golden An Khánh cũng ghi nhận mức tăng mạnh so với 3 tháng trước đó. Những căn 2 PN tại dự án này cũng tăng từ mức 2,1-2,2 tỷ đồng/căn lên mức 2,4-2,6 tỷ đồng/căn. Dự án Golden Palace (Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm) căn 2PN tăng giá từ 3,3-3,5 tỷ đồng/căn lên mức giá 3,7-3,9 tỷ đồng/căn.

Mức tăng 200-500 triệu đồng/căn so với cuối năm 2023 cũng được ghi nhận tại các dự án Sudico Mỹ Đình, HD Mon, khu đô thị Mễ Trì Hạ, khu đô thị Mễ Trì Thượng thuộc quận Nam Từ Liêm.

Tương tự, tại quận Cầu Giấy, căn hộ có diện tích khoảng 70 m2 tại dự án Home City ghi nhận mức tăng từ 3,7-3,9 tỷ đồng/căn lên mức 4,2-4,3 tỷ đồng/căn. Các dự án tái định cư thuộc Nam Trung Yên, các căn 2 PN từ mức giá 2,9-3,2 tỷ đồng của cuối năm 2023 tăng mạnh lên 3,4-3,7 tỷ đồng/căn. Dự án D’Capitale Trần Duy Hưng căn 2 PN tăng từ 4,6-4,8 tỷ đồng/căn lên mức 5,2-5,5 tỷ đồng/căn. Căn 2 PN tại The Park Home giá tăng từ 4,6-4,9 tỷ đồng/căn lên mức 5,2-5,5 tỷ đồng/căn.

Ở quận Thanh Xuân, so với cuối năm ngoái, căn hộ 2 PN tại dự án Goldseason cũng tăng từ mức 3,5-3,7 tỷ đồng/căn lên mức 3,9-4,2 tỷ đồng/căn. Dự án Imperia Garden tăng từ 3,8-3,9 tỷ đồng/căn lên mức 4,2-4,4 tỷ đồng/căn. Căn hộ 60B Nguyễn Huy Tưởng tăng từ 3,5-3,7 tỷ đồng/căn lên 3,8-3,95 tỷ đồng/căn. Loạt căn hộ thuộc dự án Hapulico cũng tăng trung bình từ 250-400 triệu đồng/căn.

Ông Nguyễn Quốc Anh, Phó Tổng giám đốc Batdongsan.com.vn nhận định, nguồn cung của thị trường chung cư Hà Nội chưa đủ đáp ứng được nguồn cầu nên giá căn hộ tiếp tục tăng. Căn hộ liên tiếp tăng giá khiến việc sở hữu nhà ở của người dân ngày càng trở nên khó khăn.

"Thực tế này sẽ chỉ dừng lại khi bài toán nguồn cung của thị trường được giải quyết. Đồng thời, việc đẩy mạnh phát triển các khu đô thị vùng ven đi kèm với hệ thống hạ tầng giao thông thuận lợi để kéo người dân ra xa thì giá nhà mới có thể hạ nhiệt", ông cho hay.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ