ĐHĐCĐ Vietcombank bầu ông Trương Gia Bình vào HĐQT, bán vốn 10% không thấp hơn giá thị trường

Sáng nay (27/4), Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) đã tổ chức cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên năm 2018. Chủ tịch HĐQT FPT Trương Gia Bình đã được bầu làm thành viên HĐQT độc lập của ngân hàng này.
THANH THỦY
27, Tháng 04, 2018 | 15:52

Sáng nay (27/4), Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) đã tổ chức cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên năm 2018. Chủ tịch HĐQT FPT Trương Gia Bình đã được bầu làm thành viên HĐQT độc lập của ngân hàng này.

Vietcombank DHCD

 

Theo tài liệu được Vietcombank công bố bổ sung, danh sách ứng cử vào HĐQT năm 2018 gồm 8 người. Số thành viên bầu trong năm 2018 cũng là 8 người. Đáng chú ý là số lượng thành viên HĐQT nhiệm kỳ mới mà Vietcombank trình cổ đông thông qua là 11 người. Như vậy, sẽ còn 3 vị trí trống sẽ được bầu cho những năm tiếp theo.

Vị trí 1 thành viên độc lập duy nhất đã được cổ đông của Vietcombank trao cho ông Trương Gia Bình, Chủ tịch HĐQT CTCP FPT, với tỷ lệ phiếu tán thành 91,73% số cổ phần có quyền biểu quyết. Ông Bình hiện cũng đang đảm nhận vị trí Trưởng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân, Chủ tịch Câu lạc bộ doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao.

Năm 2018 , Vietcombank đặt mục tiêu tổng tài sản tăng 14%, huy động vốn tăng 15%, tín dụng tăng 15%, nợ xấu dưới 1,5%. Lợi nhuận trước thuế 13.000 tỷ đồng, tăng 14,6% so với kết quả năm 2017 - mức lợi nhuận kế hoạch cao nhất được công bố tính đến thời điểm này. Năm 2017, Vietcombank cũng dẫn đầu ngành ngân hàng với lợi nhuận trước thuế xấp xỉ 11.340 tỷ đồng.

Vietcombank dự kiến dành 2.878 tỷ đồng để chia cổ tức năm 2017, tương đương 8% vốn điều lệ.

Theo Đề án cơ cấu lại, Vietcombank đặt mục tiêu nâng quy mô tổng tài sản mục tiêu lên khoảng 60 tỷ USD đến năm 2020, trở thành ngân hàng số 1 tại Việt Nam, một trong 100 ngân hàng lớn nhất trong khu vực châu Á. Quy mô vốn chủ sở hữu khoảng 4,5 tỷ USD, ROE khoảng 15%, tỷ lệ nợ xấu khống chế dưới 2%.

Trong kỳ Đại hội này, Vietcombank cũng trình cổ đông thông qua phương án xử lý khoản chênh lệch phải trả cổ đông là cán bộ nhân viên và trái chủ sở hữu trái phiếu chuyển đổi trong đợt IPO năm 2007.

Dự kiến triển khai tăng vốn cấp 1 tỷ lệ 10% trong năm 2018

Một số chỉ tiêu trong giai đoạn tới được Chủ tịch HĐQT Nghiêm Xuân Thành cho biết gồm: tăng trưởng bình quân tổng tài sản 13%, tín dụng 15%, huy động vốn 14%. ROE bình quân ở mức 15%. Nợ xấu không cao hơn 1%. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo Basel II tương ứng 9%.

Báo cáo tại Đại hội, Tổng Giám đốc Phạm Quang Dũng cho biết, riêng trong giai đoạn 2013-2017 ngân hàng đã thu hồi được 9.700 tỷ đồng nợ ngoại bảng. Năm 2016, Vietcombank đã trở thành tổ chức tín dụng đầu tiên xử lý toàn bộ nợ xấu đã bán cho VAMC, sớm 3 năm so với đề án. Trong năm 2017 Vietcombank đã thực hiện thành công phương án tăng vốn cấp II để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và thoái vốn thành công tại một số định chế tài chính. Đồng thời, Vietcombank đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận tăng vốn cấp 1 với tỷ lệ 10%, dự kiến sẽ triển khai trong năm 2018.

Theo thông tin tại Đại hội, tính tới thời điểm hiện tại Vietcombank chưa tìm được cơ hội nào khả thi để tiến hành M&A mặc dù ĐHĐCĐ năm 2016 đã thống nhất cho phép HĐQT tìm kiếm cơ hội để thực hiện M&A. Ban lãnh đạo ngân hàng cho biết, về việc hỗ trợ ngân hàng yếu kém, Vietcombank chỉ hỗ trợ về mặt nhân sự, kỹ thuật, cử nhân sự vào các vị trí lãnh đạo cao cấp (tại VNCB). Do vậy, thiệt hại về tài chính đối với Vietcombank là không có.

Khi được hỏi về phương án thoái vốn tại MBB và EIB, lãnh đạo ngân hàng cho biết hiện Vietcombank chỉ còn sở hữu cổ phần tại 2 tổ chức tín dụng, thuân thủ đúng qui định pháp luật. Tuy nhiên, tỷ lệ sở hữu vẫn vượt trên 5%. Vietcombank sẽ đưa tỷ lệ sở hữu về mức quy định, đáp ứng điều kiện tại Thông tư 36. Hiện NHNN đã chấp thuận phương án giảm tỷ lệ sở hữu tại 2 ngân hàng này của Vietcombank, còn tỷ lệ sở hữu cụ thể do ngân hàng quyết định. Nếu thị trường thuận lợi, Vietcombank sẽ thoái vốn vào quý II.

(Theo NDH)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ