VN-Index sẽ nới rộng đà tăng?

Nhàđầutư
Sắc xanh trải rộng ra nhiều nhóm ngành đã giúp VN-Index tăng hơn 10 điểm trong phiên 9/9, song việc thanh khoản thị trường chưa bứt phá cho thấy dòng tiền lớn vẫn chưa thực sự quay trở lại.
NHẬT HUỲNH
10, Tháng 09, 2021 | 07:00

Nhàđầutư
Sắc xanh trải rộng ra nhiều nhóm ngành đã giúp VN-Index tăng hơn 10 điểm trong phiên 9/9, song việc thanh khoản thị trường chưa bứt phá cho thấy dòng tiền lớn vẫn chưa thực sự quay trở lại.

z-e-8417

Ảnh Internet

Thông tin tích cực về dịch bệnh COVID-19 khi Chính phủ đề xuất những giải pháp nới lỏng giãn cách, khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh để phục hồi tăng trưởng kinh tế đã tác động tốt đến tâm lý nhà đầu tư trong phiên giao dịch 9/9.

Sắc xanh trải rộng ra nhiều nhóm ngành từ ngân hàng, chứng khoán, hàng không, vận tải, bán lẻ giúp VN-Index chốt phiên tăng 10,37 điểm (0,78%) lên 1.343,98 điểm; HNX-Index tăng 0,91% lên 350,44 điểm và UPCom-Index tăng 0,37% lên 94,71 điểm.

Thanh khoản toàn thị trường cải thiện so với phiên trước với giá trị giao dịch 3 sàn đạt hơn 23.000 tỷ đồng. Khối ngoại bán ròng hơn 792 tỷ đồng toàn thị trường, trong đó API (287 tỷ), VHM (273 tỷ), VIC (124 tỷ) dẫn đầu ở chiều bán ròng. Ở chiều ngược lại, HSG (91 tỷ), CTG (52 tỷ), MBB (34 tỷ) dẫn đầu ở chiều mua ròng.

VCBS nhận định, phiên giao dịch 9/9 cho thấy nhà đầu tư bắt đầu tỏ ra lạc quan hơn, thể hiện qua sắc xanh lan tỏa trên diện rộng và tương quan giữa số mã tăng giá và giảm giá trên HoSE khá ấn tượng (274/134). Tuy nhiên, thanh khoản duy trì tương đối thấp trong một số phiên gần đây, cho thấy dòng tiền lớn vẫn chưa thực sự quay trở lại thị trường.

Do đó, VCBS khuyến nghị nhà đầu tư trung và dài hạn nên tiếp tục quan sát thêm những diễn biến tiếp theo trên thị trường. Tuy nhiên nhà đầu tư ngắn hạn vẫn có thể cân nhắc tìm kiếm những điểm mua tốt theo phân tích kỹ thuật cho mục tiêu “lướt sóng” ngắn hạn ở nhóm cổ phiếu vốn hóa trung bình, trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ kỷ luật đầu tư trong trường hợp giá cổ phiếu đi ngược lại kỳ vọng ban đầu

Tương tự, theo MBS, về kỹ thuật, thị trường vẫn ở trạng thái dao động nhỏ khi chưa có sự hỗ trợ từ thanh khoản. Do vậy, kịch bản cơ sở là thị trường tiếp tục tuy trì trạng thái đi ngang tích lũy với sự phân hóa ở cổ phiếu. Cơ hội để nhà đầu tư cơ cấu danh mục đối với những nhóm cổ phiếu được hưởng lợi từ: Xuất khẩu, logistics, thị trường hàng hóa và thực phẩm, đầu tư công, bán lẻ, bất động sản.

CTCK Kiến Thiết Việt Nam (CSI) phân tích thêm, về kỹ thuật VN-Index đang dao động trong biên độ khá hẹp và trong ngắn hạn, ngưỡng 1.312 là ngưỡng hỗ trợ khá tốt. 

Trong khi đó, Chứng khoán Yuanta cho rằng chỉ số VN-Index có thể sẽ tiếp tục hồi phục và kiểm định kháng cự ngắn hạn 1.354 điểm trong phiên kế tiếp. Đồng thời, dòng tiền có thể sẽ tiếp tục tập trung ở nhóm cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ.

“Chúng tôi cho rằng rủi ro ngắn hạn vẫn ở mức thấp và nhóm cổ phiếu ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực hơn cho thấy độ rộng thị trường sẽ khả quan hơn trong những phiên giao dịch tới. Xu hướng ngắn hạn của thị trường chung vẫn duy trì ở mức tăng. Do đó, chúng tôi khuyến nghị các nhà đầu tư ngắn hạn có thể tiếp tục nắm giữ tỷ trọng cổ phiếu cao trong danh mục và tận dụng nhịp điều chỉnh để gia tăng tỷ trọng cổ phiếu”, Yuanta nêu quan điểm.

Ở góc nhìn thận trọng hơn, SHS đưa ra hai kịch bản cho thị trường trong phiên giao dịch cuối tuần 10/9, theo đó, VN-Index có thể hướng đến mốc 1.350 điểm và nếu đóng cửa trên ngưỡng này thì chỉ số sẽ có khả năng hướng đến vùng kháng cự tiếp theo quanh 1.375-1.380 điểm trong thời gian tới.

Nếu thất bại, chỉ số có thể sẽ điều chỉnh với ngưỡng hỗ trợ gần nhất trong khoảng 1.330-1.340 điểm. SHS khuyến nghị những nhà đầu tư đang có tỷ trọng cổ phiếu lớn có thể tiếp tục canh những phiên hồi kỹ thuật để giảm tỷ trọng còn nhà đầu tư đang có tỷ trọng tiền mặt cao tiếp tục đứng ngoài và quan sát thị trường, tránh mua đuổi ở thời điểm hiện tại.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ