Nguồn cung mới rục rịch bung hàng trên thị trường địa ốc TP HCM cuối năm

So với cùng kỳ năm ngoái thì thông tin dự án mới ra thị trường vào thời điểm này tại TP HCM khá yên ắng.
HẠ VY
23, Tháng 12, 2019 | 16:29

So với cùng kỳ năm ngoái thì thông tin dự án mới ra thị trường vào thời điểm này tại TP HCM khá yên ắng.

c39a55b19d4764193d56-15770210399092139217161-crop-15770210505661314906561

Nguồn cung mới rục rịch bung hàng trên thị trường địa ốc TP HCM cuối năm

CTCP Centerhome vừa ra mắt dự án Centerhome RiverSide với tổng diện tích hơn 12.000 m2, bao gồm khu biệt thự và nhà phố (diện tích từ 60-100m2) tại P.Trường Thọ, Q.Thủ Đức, TP HCM.

Đây cũng là dự án “mới tinh” hiếm hoi tại Q.Thủ Đức được ra mắt ở thời điểm cuối năm 2019. Đại diện đơn vị này cho biết, dự án được khởi công xây dựng hạ tầng trong tháng 12/2019, dự kiến đến tháng 9/2020 sẽ bàn giao nhà cho khách hàng.

Cùng khu vực, chủ đầu tư Đại Phúc cũng dự kiến trong thời điểm giáp Tết tung ra thị trường 22 căn Luxury shophouse ven kênh Sông Trăng thuộc giai đoạn tiếp theo của Khu đô thị Vạn Phúc (Q.Thủ Đức, TP HCM). Dự kiến trong các quý đầu năm 2020 sẽ có kế hoạch giới thiệu căn hộ trong khu đô thị này.

Ở phân khúc căn hộ, theo thông tin từ Phúc Khang Group, thời điểm cuối năm 2019 sẽ mở bán đợt tiếp theo dự án Rome by Diamond Lotus tại Q.2. Tương tự, Sea Holdings tận dụng sức mua cuối năm để tiếp tục bán 400 căn hộ dự án Fresca Riverside, thuộc khu dân cư Bình Chiểu phường Bình Chiểu, Q.Thủ Đức.

Tập đoàn Sunshine Group cũng công bố vào cuối quý 4/2019 và đầu quý 1/2020 sẽ chính thức mở bán dự án Sunshine Horizon tại Tôn Thất Thuyết, Q.4. Đây là dự án căn hộ thuộc phân khúc cao cấp.

Ngoài ra, được biết, một số dự án căn hộ khác tại khu Đông cũng đang trong giai đoạn chuẩn bị giới thiệu ra thị trường vào 2 quý cuối năm.

Theo dự báo từ DKRA Vietnam, nguồn cung mới phân khúc nhà phố/biệt thự có thể sẽ tăng trong quý cuối của năm 2019, dao động ở mức 400 - 600 căn. Khu Đông tiếp tục dẫn đầu thị trường về nguồn cung của phân khúc này. Sức cầu thị trường nhìn chung có thể tăng nhẹ nhưng khó có sự gia tăng đột biến.

Trong khi đó, ở phân khúc căn hộ, sức cầu thị trường sẽ có thể tăng nhẹ, khu Đông và khu Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn cung. Căn hộ hạng A và hạng B tiếp tục dẫn dắt thị trường, nguồn cung căn hộ hạng C khan hiếm khi chưa có nhiều dự án mới.

Nói về sức mua của thị trường TP HCM thời điểm cuối năm, các chuyên gia trong ngành cho rằng, nhu cầu ở thực và đầu tư dài hạn nhà ở tại TP HCM vẫn tăng trưởng ổn định. Do vậy, những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu này sẽ có lợi thế cạnh tranh khá tốt trên thị trường.

Thực tế thì trên thị trường thành phố thời gian qua khan hiếm nguồn cung mới nhưng sức mua vẫn rất tốt ở các dự án đủ điều kiện bung thị trường. Minh chứng là một số dự án chung cư, nhà phố chào bán sức mua ghi nhận 80-90%, thậm chí một số dự án bán hết sạch trong khoảng thời gian ngắn.

Bà Dương Thùy Dung, Giám đốc cấp cao CBRE Việt Nam cho rằng, dự báo từ thời điểm cuối năm 2019, đầu năm 2020 nguồn cung thị trường bất động sản sẽ có dấu hiệu khả quan do nhiều chủ đầu tư dự án đã sẵn sàng các kế hoạch bung dự án ra thị trường chỉ chờ hoàn thành các điều kiện. Tại TP HCM, nguồn cung sẽ tốt hơn khi mà chính quyền địa phương đang tính đến các phương án nới lỏng cơ chế cấp phép dự án mới, tạo niềm tin rất lớn cho doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Còn theo ông Nguyễn Văn Hùng, Trưởng văn phòng Hội môi giới bất động sản Việt Nam tại khu vực miền Nam, cho rằng, đất nền và nhà liền thổ vẫn sẽ là kênh hấp dẫn người mua do lợi nhuận cao, và đáp ứng nhu cầu tiết kiệm, để dành khi có nguồn tiền nhàn rỗi.

Tuy vậy, theo các chuyên gia trong ngành, để nguồn cung thị trường quay trở lại ổn định như các năm thì cần sự hỗ trợ tích cực về pháp lý từ phía chính quyền. Việc nguồn cung phục hồi phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giá bất động sản; pháp lý dự án, quy trình thanh tra; quy hoạch đô thị…

(Theo Trí thức trẻ)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ