Lượng chào bán căn hộ chung cư ở TP.HCM thấp nhất 15 năm

Nhàđầutư
Trong quý đầu năm, số lượng chào bán căn hộ chung cư ở TP.HCM chỉ có khoảng 500 căn, thấp nhất trong 15 năm.
VŨ PHẠM
15, Tháng 04, 2024 | 13:59

Nhàđầutư
Trong quý đầu năm, số lượng chào bán căn hộ chung cư ở TP.HCM chỉ có khoảng 500 căn, thấp nhất trong 15 năm.

Báo cáo thị trường bất động sản của CBRE Việt Nam cho thấy, trong quý I, tại TP.HCM, chỉ có khoảng 500 căn hộ chung cư được chào bán ra thị trường, phần lớn vẫn là các giai đoạn tiếp theo của các dự án đã chào bán từ năm 2023, trong đó chỉ có hơn 80 căn thuộc phân khúc cao cấp tại khu vực phía Nam thành phố.

Đây là số lượng căn hộ chào bán thấp nhất trong một quý trong khoảng 15 năm trở lại đây tại TP.HCM và chỉ bằng khoảng 17% so với cùng kỳ năm 2023.

Bên cạnh đó, do nguồn cung mới hạn chế đã dẫn tới số lượng căn hộ tiêu thụ cũng thấp so với cùng kỳ năm ngoái cũng như so với quý IV/2023. Cụ thể, tổng số căn hộ chung cư bán được trong quý I tại TP.HCM khoảng hơn 600 căn, giảm 74% so với quý IV/2023 nhưng vẫn nhiều hơn so với số lượng căn hộ mới được chào bán trong quý.

bat-dong-san-tphcm

Quý I, TP.HCM chỉ có khoảng 500 căn hộ chung cư được chào bán ra thị trường. Ảnh: VP

Tỷ lệ hấp thụ của các dự án chào bán đạt khoảng 80%, nhờ vào mức giá không có nhiều sự điều chỉnh so với các giai đoạn mở bán trước hoặc mức giá được đánh giá là phù hợp với mặt bằng chung của khu vực. 

Trong quý, 1 dự án chung cư phân khúc hạng sang tại khu vực đường Mai Chí Thọ, TP. Thủ Đức có lượng đặt chỗ tương đối khả quan với mức giá chào bán từ 125 triệu đồng/m2 trở lên.

Tại khu vực phía Nam, tỉnh Bình Dương là địa phương nổi bật có nhiều hoạt động chào bán tích cực và có lượng giao dịch sôi động. Một dự án nhà xây sẵn mới tại Thành phố mới Bình Dương đã có lượng đặt chỗ khoảng hơn 300 căn sau một tháng nhận đặt chỗ, cùng nhiều dự án chung cư mới được ra mắt với các chính sách bán hàng hấp dẫn. CBRE cho rằng, đây là các dấu hiệu cho thấy thị trường trong quý II/2024 dự kiến sẽ sôi động hơn.

Mặt bằng giá chung cư ở TP.HCM lại không có sự thay đổi. Tại thời điểm cuối quý I, giá sơ cấp chung cư TP.HCM đạt mức 61 triệu đồng/m2, không thay đổi so với quý trước và giảm khoảng 3% so với cùng kỳ năm ngoái. Các chủ đầu tư vẫn tiếp tục duy trì các chính sách bán hàng cũng như chính sách thanh toán tương đối hấp dẫn để có thể tăng tính thanh khoản cho sản phẩm.

Năm nay, tại TP.HCM, CBRE dự báo sẽ có khoảng hơn 8.000 căn chung cư dự kiến mở bán mới, giá sơ cấp chung cư có thể tăng 3% theo năm.

Tương tự, báo cáo của Savills Việt Nam chỉ ra, trong quý I, nguồn cung sơ cấp và tình hình bán hàng trầm lắng. Cụ thể, nguồn cung sơ cấp giảm mạnh 35% theo quý và 28% theo năm xuống còn 4.922 căn sau khi 9 dự án tạm ngưng bán hàng. Lượng bán gồm 1.116 căn giảm 63% theo quý nhưng tăng 29% theo năm. Tỷ lệ hấp thụ giảm 18 điểm % theo quý nhưng cải thiện 10 điểm % theo năm lên 23%.

Các sản phẩm hạng C được người mua ưa chuộng và chiếm 61% thị phần lượng bán theo quý, tiếp theo là hạng B với 37%. Nguồn cung mới hoạt động tốt và được hấp thụ 68%. Trong khi tỷ lệ hấp thụ hàng tồn kho thấp ở mức 16%.

Do thị trường khó khăn, hầu hết các chủ đầu tư đều đưa ra phương thức thanh toán kéo dài 2 năm cùng chương trình ân hạn gốc và lãi. Lãi suất thế chấp ưu đãi trong vòng 15 năm lần đầu tiên xuất hiện tại dự án thuộc khu đô thị Vinhome Grand Park. Ngoài ra, nhiều chủ đầu tư dự án cũng đang có chính sách chiết khấu lớn lên tới 24%.

Ông Troy Griffiths, Phó Giám đốc Điều hành Savills Việt Nam nhận định, bất chấp những thách thức đang diễn ra, các động lực mạnh mẽ và nhu cầu nhà ở lớn chưa được đáp ứng dự kiến sẽ hỗ trợ thị trường phục hồi.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24900.00 24920.00 25240.00
EUR 26183.00 26288.00 27459.00
GBP 30590.00 30775.00 31725.00
HKD 3138.00 3151.00 3253.00
CHF 26916.00 27024.00 27854.00
JPY 159.28 159.92 167.24
AUD 15962.00 16026.00 16515.00
SGD 18096.00 18169.00 18702.00
THB 665.00 668.00 695.00
CAD 17894.00 17966.00 18490.00
NZD   14679.00 15171.00
KRW   17.38 18.92
DKK   3516.00 3644.00
SEK   2267.00 2354.00
NOK   2263.00 2352.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ