Các giải pháp để phát triển logistics

Nhàđầutư
Sáng 17/4, Báo Lao Động phối hợp cùng Hội Vận tải Thủy nội địa Việt Nam tổ chức Tọa đàm trực tuyến "Gỡ nút thắt hạ tầng, thúc đẩy phát triển giao thông đường thủy”. Ông Mai Lê Lợi - Tổng Giám đốc công ty cổ phần Vinalines logistics đã đưa ra các giải pháp để phát triển logistics.
NHÂN HÀ
17, Tháng 04, 2018 | 10:21

Nhàđầutư
Sáng 17/4, Báo Lao Động phối hợp cùng Hội Vận tải Thủy nội địa Việt Nam tổ chức Tọa đàm trực tuyến "Gỡ nút thắt hạ tầng, thúc đẩy phát triển giao thông đường thủy”. Ông Mai Lê Lợi - Tổng Giám đốc công ty cổ phần Vinalines logistics đã đưa ra các giải pháp để phát triển logistics.

ong mai le loi - nhadautu.vn

Ông Mai Lê Lợi - Tổng Giám đốc công ty cổ phần Vinalines logistics 

Ông Lợi cho biết, Vinalines hiện đang vận hành 15 cảng với chiều dài tuyến bến khoảng 13km. Năm 2017, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Vinalines đạt 88,3 triệu tấn tương đương 16,4% cả nước, hàng container đạt 3,9 triệu teus tương đương 26,5% cả nước.

Theo ông Lợi, cần thực hiện giải pháp phát triển logistics và tăng cường kết nối các phương thức vận tải bằng việc ưu tiên phát triển các cảng nước sâu có quy mô đủ lớn tại các vùng trọng điểm kinh tế. Chú trọng các cảng Lạch Huyện, Đà Nẵng, Cái Mép, Hiệp Phước, nghiên cứu một vị trí thích hợp tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long có thể phát triển cảng nước sâu nhằm tạo ra cửa ngõ cho hàng hóa của khu vực này. Các trung tâm này sẽ tạo thành các điểm nút logistics kết nối các phương thức vận tải, đồng thời cũng là các đầu mối kết nối với các tuyến hàng hải quốc tế.

Giải pháp này thực hiện thông qua các hoạt động quy hoạch, quản lý, khuyến khích đầu tư, hợp tác giữa các doanh nghiệp để tập trung, tích tụ nguồn lực phát triển các trung tâm logistics là cảng biển tại các vùng kinh tế trọng điểm với quy mô đủ lớn, chuyên dụng, dành đủ quỹ đất để tạo điều kiện thuận lợi hình thành các đầu mối kết nối với các phương thức vận tải khác như đường thủy nội địa, đường bộ, đường sắt … phát huy tối đa tính kinh tế quy mô, nâng cao năng suất, hiệu quả.

Để hiện thực hóa giải pháp này, Chính phủ, bộ ngành và các địa phương xem xét, ủng hộ về chủ trương, nguồn lực (bao gồm ưu tiên quỹ đất hiện không còn nhiều) cho các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước thực hiện để duy trì định hướng, khả năng kiểm soát của Nhà nước về dài hạn cũng như đảm bảo yếu tố an ninh quốc phòng.

Để cải thiện năng lực kết nối, Vinalines đề xuất quy hoạch, khuyến khích đầu tư phát triển hệ thống ICD, kho bãi, cảng thủy nội địa và mạng lưới giao thông đường thủy nội địa, đường bộ, đường sắt nhằm kết nối đến các cảng nước sâu, phát huy tối đa tính hệ thống, tính tổng thể của mạng lưới logistics nội địa.

Theo đó cần ưu tiên kết nối giữa các bến cảng hiện có tại Cái Mép, Hiệp Phước với Bình Dương, Đồng Nai và đồng bằng sông Cửu Long; giữa Lạch Huyện với khu vực Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Việt Trì. Nghiên cứu, phát triển hệ thống quản lý cảng, bến thủy nội địa, ICD có thể áp dụng chung trên toàn quốc, tương thích với các phần mềm (TOS) của các cảng để nâng cao hiệu quả quản lý, kết nối.

Tiếp theo, cần tăng cường quản lý, điều tiết của các cơ quan quản lý nhà nước và địa phương thông qua cơ chế giá cả (phí, lệ phí, biểu giá…) để hạn chế những bất cập của thị trường.

“Cuối cùng, là một doanh nghiệp nhà nước, Vinalines luôn nhận thức được vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình trong phát triển logistics, hỗ trợ phát triển kinh tế quốc gia, kinh tế vùng. Chúng tôi cam kết luôn nỗ lực hết sức mình để hoàn thành sứ mệnh này và mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ của Chính phủ và các bộ ngành trong hoạt động đầu tư phát triển hệ thống cảng biển và vận tải biển trong thời gian tới” - ông Mai Lê Lợi chia sẻ.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ