TP.HCM có thể vực dậy kinh tế cả nước nhưng các cực tăng trưởng đã "đuối"

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM Trần Hoàng Ngân cho rằng, các cực tăng trưởng của Việt Nam giờ đã "đuối", cần đầu tư để vực dậy nền kinh tế chung.
HIẾU NGUYỄN
04, Tháng 10, 2020 | 07:29

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM Trần Hoàng Ngân cho rằng, các cực tăng trưởng của Việt Nam giờ đã "đuối", cần đầu tư để vực dậy nền kinh tế chung.

pgs-ts-tran-hoang-ngan-tphcm-_961601697012

Ông Trần Hoàng Ngân phát biểu tại phiên thảo luận về giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp nhỏ, ngày 16/6. Ảnh: Trung tâm báo chí Quốc hội

Quan điểm được PGS.TS Trần Hoàng Ngân nêu tại tọa đàm “Khôi phục và phát triển kinh tế TP.HCM trong bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 hiện nay” ngày 3/10, do Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong chủ trì.

Để chứng minh điều này, ông Ngân cho rằng, suốt thời gian qua kinh tế TP.HCM có hiệu quả cao nhất nước với năng suất cao gấp 2,6 bình quân cả nước; lao động mỗi năm tăng thêm 120.000 người; 1 đồng đầu tư ngân sách có sự lan tỏa, tức 1 đồng ngân sách bỏ ra  thu hút vốn đầu tư xã hội vào lên đến 14 đồng.

Tuy nhiên, hiện thành phố gặp rất nhiều thách thức, từ vấn đề gia tăng dân số (bình quân mỗi năm tăng 200.000 người); nước biển dâng, sụt lún, đô thị hóa... Riêng chuyện kẹt xe đã làm tăng chi phí vận chuyển, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong khi vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa tương thích với nguồn lực TP.HCM. 

“Kim ngạch xuất khẩu từ vị trí chiếm đến 56% cả nước vào năm 2000 thì giờ chỉ còn 15%. TP.HCM là địa phương có đóng góp ngân sách lớn nhất nhưng tỷ lệ chi trên đầu người thấp nhất cả nước. Lúc này Trung ương phải xem lại, vì các cực tăng trưởng đã đuối rồi, giờ phải đầu tư cho các cực tăng trưởng để vực dậy nền kinh tế chung cả nước”, ông Ngân bày tỏ.

Tới đây TP.HCM có đến 51 đề án trọng điểm sẽ được triển khai như đề án chính quyền đô thị; thành lập thành phố Thủ Đức; hình thành các trung tâm tài chính mang tính khu vực; về hạ tầng giao thông... Dĩ nhiên, theo ông Ngân, quan trọng nhất chính là nguồn tiền. Để giải quyết bài toán nguồn tiền thì phải có đề án về chi ngân sách. Làm sao Trung ương phải để lại cho ngân sách của TP.HCM nhiều hơn, ít nhất phải là 23%, chứ còn 18% như hiện nay là rất khó.

Người đứng đầu Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM cho rằng, từ khi tỷ lệ ngân sách Trung ương để lại cho TP.HCM giảm dần thì tỷ trọng xuất khẩu cũng giảm dần: “Đầu tiên là trung ương để lại 33% vào năm 2000, sau đó là 29% giai đoạn 2004-2006; 26% vào năm 2007 và sau đó là 23% và hiện nay TP.HCM chỉ còn còn lại 18%. Tức là TP.HCM thu được 100 đồng, chuyển trung ương 82 đồng, giữ lại 18 đồng. Khi ngân sách để lại ít quá thì đầu tư cho cảng biển, đường sá, sân bay sẽ phải giảm đi...”.

"TP.HCM nên đăng ký kỷ lục thế giới về địa phương có tỷ lệ ngân sách được giữ lại thấp nhất thế giới" PGS. Trần Hoàng Ngân khôi hài. 

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 9 tháng đầu năm của TPHCM ước tăng 0,77% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực nông lâm thủy sản tăng 2,7%, khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,1%, khu vực dịch vụ tăng 1,2%. Tổng thu cân đối ngân sách Nhà nước sau 9 tháng của TPHCM ước thực hiện 245.362 tỷ đồng, đạt 60,5% dự toán và giảm 14,6% so với cùng kỳ. Chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 4,9%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 942.958 tỷ đồng, giảm 2,3%. Ngành lưu trú, ăn uống giảm mạnh 39,9% và hoạt động lữ hành sụt giảm tới 73,6% vì dịch bệnh.

Hơn 84% doanh nghiệp tại TPHCM vẫn còn trong tình trạng khó khăn. Khoảng 76% các doanh nghiệp chưa tiếp cận được các gói hỗ trợ. Chỉ 10% doanh nghiệp tiếp cận được chính sách miễn, giảm lãi suất cho vay của ngân hàng. Đặc biệt, chưa có doanh nghiệp nào tiếp cận được gói vay vốn 0% để trả lương người lao động.

(Theo PNO)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ