Thiếu nhân công và mưa lớn, HAGL Agrico lỗ tiếp gần 200 tỷ quý III

Nhàđầutư
HAGL Agrico chưa dứt chuỗi thua lỗ, đẩy lỗ lũy kế tăng lên 7.450 tỷ đồng. Công ty nông nghiệp của tỷ phú Trần Bá Dương giảm lỗ so với cùng kỳ năm trước do chuyển đổi hạch toán từ đồng LAK sang đồng USD.
MỸ HÀ
29, Tháng 10, 2023 | 07:00

Nhàđầutư
HAGL Agrico chưa dứt chuỗi thua lỗ, đẩy lỗ lũy kế tăng lên 7.450 tỷ đồng. Công ty nông nghiệp của tỷ phú Trần Bá Dương giảm lỗ so với cùng kỳ năm trước do chuyển đổi hạch toán từ đồng LAK sang đồng USD.

hagl-agrico

HAGL Agrico đang xây dựng mô hình kết hợp trồng trọt và chăn nuôi khép kín. Nguồn: HNG

Theo BCTC hợp nhất quý III, CTCP Nông nghiệp Quốc tế Hoàng Anh Gia Lai (HAGL Agrico, HoSE: HNG) đạt doanh thu 159 tỷ đồng, giảm 17% so với cùng kỳ năm trước. Giá vốn cao hơn doanh thu nên công ty lỗ gộp 100 tỷ đồng, cải thiện so với mức lỗ 182 tỷ quý III/2022.

Công ty thông tin mảng cây ăn trái chỉ đạt 84 tỷ đồng doanh thu, sản lượng 6.556 tấn, giảm 62% so với cùng kỳ và thấp hơn nhiều so với kế hoạch 19.523 tấn. Nguyên nhân là do tình trạng thiếu nhân công lao động cùng thời tiết mưa nhiều, kéo dài gây ngập úng, khó khăn trong quá trình thu hoạch và vận chuyển chuối, làm tăng dịch bệnh dẫn đến năng suất buồng kém, số lượng buồng phải hủy bỏ không thu hoạch tại vườn 43%. Ngoài ra, trong kỳ công ty vẫn tiếp tục tập trung đầu tư chăm sóc, cải tạo lại vườn cây hiện hữu dẫn đến diện tích cho thu hoạch thấp.

Tương tự, cây cao su tạo ra doanh thu 55 tỷ đồng, sản lượng 1.973 tấn, giảm 13% so với quý III/2022 và thấp hơn so với kế hoạch 3.272 tấn. Lý do là thiếu khoảng 37% số lượng công nhân cạo mủ cao su so với định biên, tỷ lệ vườn cây khai thác tập trung chỉ đạt 39% so với tổng diện tích vườn. Ngoài ra, chi phí giá vốn vườn cây lớn chủ yếu là chi phí khấu hao (chiếm 60%) dẫn đến doanh thu không đủ bù đắp chi phí.

Chi phí tài chính giảm mạnh từ 223 tỷ đồng về 88 tỷ đồng nhờ chuyển đổi hạch toán từ đồng LAK sang đồng USD (không còn ghi nhận khoản lỗ từ chênh lệch tỷ giá ảnh hưởng từ đồng LAK bị mất giá). Chi phí bán hàng và quản lý chiếm tỷ trọng không đáng kể. Doanh nghiệp lỗ 199 tỷ đồng, giảm so với mức lỗ 416 tỷ cùng kỳ năm trước – kéo dài chuỗi 11 quý thua lỗ liên tiếp.

Lũy kế 9 tháng, doanh thu thuần của HAGL Agrico ở mức 438 tỷ đồng, giảm 21%; lỗ ròng 446 tỷ đồng, có sự cải thiện so với mức lỗ 1.085 tỷ đồng cùng kỳ năm trước.

Tính đến cuối quý III, doanh nghiệp của tỷ phú Trần Bá Dương lỗ lũy kế 7.450 tỷ đồng, trong khi vốn góp chủ sở hữu 11.085 tỷ đồng; tổng nợ vay ghi nhận 7.843 tỷ đồng, gấp 2,7 lần vốn chủ sở hữu.

Trồng trọt kết hợp nuôi bò

Việc thua lỗ liên tiếp đã khiến cổ phiếu HNG bị đưa vào diện kiểm soát. Ngày 27/10, HAGL Agrico đã đưa ra biện pháp và lộ trình khắc phục gửi HoSE.

Cụ thể, công ty cho biết đang thực hiện theo chiến lược sản xuất nông nghiệp quy mô lớn trên nền tảng hữu cơ, quản trị theo phương pháp công nghiệp xuyên suốt chuỗi giá trị, ứng dụng cơ giới hóa, công nghệ sinh học và số hóa.

Theo đó, doanh nghiệp đầu tư quy hoạch tổng thể, đồng bộ hệ thống giao thông – thủy lợi – điện…; trồng trọt chuyên canh chuối, dứa với diện tích lợn; đầu tư nhà máy sơ chế, chế biến trái cây; trồng trọt các loại cây ăn trái (xoài, bưởi, sầu riêng…) kết hợp chăn nuôi bò sinh sản bán chăn thả, bê và bò thịt chăn thả, bò thịt vỗ béo tập trung; chuyển đổi cây cao su không hiệu quả sang trồng chuối, dứa và cây ăn trái kết hợp với chăn nuôi bò; tổ chức mô hình khu liên hợp sản xuất trồng trọt và chăn nuôi khép kín.

HAGL Agrico tin rằng với chiến lược trên, doanh nghiệp có thể phát triển bền vững và tạo ra lợi nhuận trong các năm tiếp theo, từng bước giảm lỗ lũy kế trong thời gian ngắn nhất.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ