Nhóm ngân hàng, bất động sản tăng mạnh phát hành trái phiếu nửa đầu năm

Nhàđầutư
Theo thống kê của SSI, trong nửa đầu năm 2020, tổng lượng phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp tăng trưởng mạnh thêm 61% so với cùng kỳ năm trước, đạt 171 nghìn tỷ đồng. Trong đó, nhóm bất động sản và ngân hàng chiếm gần 70% tổng lượng phát hành.
ĐÌNH VŨ
16, Tháng 08, 2020 | 16:33

Nhàđầutư
Theo thống kê của SSI, trong nửa đầu năm 2020, tổng lượng phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp tăng trưởng mạnh thêm 61% so với cùng kỳ năm trước, đạt 171 nghìn tỷ đồng. Trong đó, nhóm bất động sản và ngân hàng chiếm gần 70% tổng lượng phát hành.

Theo thống kê của SSI, trong 6 tháng đầu năm, các doanh nghiệp phát hành tổng cộng 171,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu, tăng mạnh 61,3% so với cùng kỳ năm ngoái và bỏ xa mức tăng trưởng 37% của năm 2019. Trong đó, các doanh nghiệp bất động sản và ngân hàng chiếm gần 70% tổng lượng phát hành.

Cụ thể, nhóm các doanh nghiệp BĐS phát hành nhiều nhất với tổng cộng 71,6 nghìn tỷ đồng trái phiếu, chiếm 41,8% tổng lượng phát hành và tăng 57,5% so với cùng kỳ năm 2019. Đứng thứ 2 là nhóm ngân hàng với tổng giá trị phát hành là 47,3 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 27,6% và tăng 31,2% so với cùng kỳ năm 2019.

Sau đó là nhóm năng lượng và khoáng sản phát hành 10,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 6,1%) - gấp 5,3 lần cùng kỳ 2019). Còn lại là nhóm phát triển hạ tầng (1,6%), các công ty dịch vụ tài chính (1,7%) và các doanh nghiệp khác.

trai-phieu-bds

Trong tháng 7, 8/2020, doanh nghiệp sẽ tiếp tục tăng mạnh phát hành trái phiếu.

Lãi suất phát hành (không tính trái phiếu ngân hàng) quý 2/2020 giảm 0,14% so với quý 1/2020, tỷ trọng lãi suất thả nổi tăng lên và kỳ trả lãi/xác định lãi suất cũng ngắn hơn. Diễn biến này rõ ràng nhất ở nhóm trái phiếu bất động sản.

Trái phiếu BĐS trong quý 2/2020 có kỳ hạn bình quân là 3,26 năm và lãi suất phát hành bình quân là 10,42%/năm – giảm so với mức 3,85 năm và 10,77%/năm của quý 1/2020. 

Đáng chú ý, các ngân hàng thương mại mua 28,2 nghìn tỷ đồng trái phiếu BĐS trên sơ cấp, chiếm 40% tổng lượng phát hành trong 6 tháng đầu năm 2020. Một số lô phát hành lớn được các NHTM mua là của các công ty CTCP Kita Invest, của CTCP Phát triển Thành phố Xanh, CTCP City Garden, CTCP Đầu tư kinh doanh BĐS Hà An, Công ty TNHH Saigon Glory, Công ty TNHH Thành phố AQUA...

Các NĐT cá nhân mua 14,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu BĐS trên sơ cấp, chiếm 20% tổng lượng phát hành trong 6T2020 trong đó riêng mua trái phiếu kỳ hạn 3-5 năm, lãi suất cố định 10,9%/năm của TNR Holdings và CTPC đầu tư và cho thuê tài sản TNL là 12,2 nghìn tỷ đồng chia làm 251 lô phát hành nhỏ.

Trong 6 tháng đầu năm 2020, các NHTM phát hành tổng cộng 47,3 nghìn tỷ đồng với kỳ hạn bình quân 4,55 năm – dài hơn mức 4,12 năm của năm 2019 và lãi suất bình quân 6,68%/năm – thấp hơn mức lãi suất 7,04%/năm của 2019.

BIDV tiếp tục là ngân hàng phát hành nhiều nhất với 15,2 nghìn tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn từ 6 đến 15 năm – đều là những trái phiếu đủ tiêu chuẩn để tính vào vốn cấp 2 và BIDV đều có quyền mua lại trước hạn sau 1-5 năm, riêng các trái phiếu 15 năm là sau 10 năm kể từ ngày phát hành. Nếu BIDV không thực hiện quyền mua, lãi suất các kỳ sau sẽ bật lên rất cao.

Nếu tính theo kỳ hạn thực hiện quyền mua, số trái phiếu của BIDV phát hành trong 6 tháng đầu năm 2020 có kỳ hạn bình quân chỉ là 2,34 năm. Lãi suất bình quân kỳ đầu tiên 7,45%/năm – cao hơn lãi suất tiền gửi gần 2% và các kỳ sau cũng cộng thêm biên độ từ 0,6-1,2%/năm so với lãi suất tiền gửi và mức độ rủi ro thấp, trái phiếu của BIDV được các nhà đầu tư cá nhân ưa thích nhất trong số trái phiếu ngân hàng phát hành 6 tháng, nhóm này mua tổng cộng 4.274 tỷ đồng trái phiếu BIDV và 105 tỷ đồng trái phiếu TPB.

Theo nhận định của SSI, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể tiếp tục tăng nóng trong tháng 7 và 8/2020. Sau khi Nghị định 81 có hiệu lực, kênh tín dụng của các NHTM sẽ trở lại thành kênh tài trợ vốn chính cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp BĐS. Thị trường TPDN thứ cấp sẽ vẫn sôi động nhờ chênh lệch tốt so với lãi suất tiền gửi.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ