Nhà ở xã hội sẽ ‘tỏa sáng’ trong năm 2018 nhờ Quyết định 117

Nhàđầutư
Với mức lãi suất 5% cho dư nợ của các khoản cho vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội, Quyết định 117 sẽ là đòn bẩy giúp phân khúc nhà thu nhập thấp “tỏa sáng” trong năm 2018.
THỦY TIÊN
06, Tháng 02, 2018 | 08:08

Nhàđầutư
Với mức lãi suất 5% cho dư nợ của các khoản cho vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội, Quyết định 117 sẽ là đòn bẩy giúp phân khúc nhà thu nhập thấp “tỏa sáng” trong năm 2018.

Vài năm trước đây, Chính phủ ban hành gói hỗ trợ nhà ở 30.000 tỷ đồng, phân khúc nhà ở xã hội, nhà thu nhập thấp có điều kiện phát triển, góp phần giải quyết nhu cầu về nhà ở cho đại bộ phận người dân, từng bước bình ổn thị trường bất động sản. Nhưng khi gói hỗ trợ kết thúc, phân khúc này cũng “chìm” theo. Việc triển khai các nguồn vốn hỗ trợ tiếp theo khá chậm chạp, dẫn đến nguồn cung nhà thu nhập thấp đã ít, nay còn khan hiếm hơn. Hơn một năm qua, không có thêm nhiều dự án khởi công, nhất là nhà ở xã hội, chủ yếu vẫn là các dự án đã triển khai từ trước đó.

Theo Sở Xây dựng Hà Nội, năm 2017 đã có khoảng 11 triệu m2 nhà ở mới được xây dựng, nhưng nhà ở xã hội chỉ có khoảng 60.000 m2. Trong khi đó, nhà ở thương mại cung ứng ra thị trường đạt hơn 2,5 triệu m2. Số diện tích xây dựng còn lại do người dân tự xây dựng mới. Trong năm 2018, dự kiến sẽ có thêm hơn 430.000 m2 nhà ở xã hội được xây dựng.

Năm 2017, Hà Nội cũng chỉ có 3 dự án gần trung tâm được triển khai mở bán là nhà ở xã hội Minh Khai (Hai Bà Trưng, Hà Nội), Tam Trinh (Hoàng Mai, Hà Nội) và dự án Kiến Hưng (Hà Đông, Hà Nội). Có 2 dự án được bán tiếp từ năm trước là nhà ở xã hội Phú Lãm (Hà Đông, Hà Nội) và Bright City (Hoài Đức, Hà Nội). Năm dự án cung cấp đến hàng nghìn căn hộ cho người mua, nhưng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng thu nhập thấp.

nha-o-xa-hoi

Nhà ở xã hội của Ceo Group  

Có những dự án vừa mở bán đã bán hết ngay hàng trăm căn hộ, song cũng có dự án mở bán cả chục lần cũng chỉ được số lượng nhỏ như: dự án Bamboo Garden của CEO Group tại Quốc Oai, mở bán 11 lần được 130 căn/ 432 căn.

Việc dành 20% quỹ đất sạch trong các dự án phát triển khu đô thị để xây dựng nhà ở xã hội chưa được thực hiện nghiêm túc nên việc triển khai xây dựng gặp khó khăn, doanh nghiệp giảm sự “mặn mà” đối với phân khúc này.

Theo nhiều chủ đầu tư, nguyên nhân chính là lợi nhuận thấp, trong khi chủ đầu tư nhà ở xã hội, nhà thu nhập thấp chỉ được hưởng một số ưu đãi nhất định như miễn thuế sử dụng đất, nhưng lại có những quy định ngặt nghèo về thủ tục pháp lý, giá bán… Hiện cũng chưa có thêm gói tín dụng cho vay ưu đãi hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội và nhà thu nhập thấp, sau khi gói 30.000 tỷ đồng hết hạn.

Ngoài ra, một số dự án nhà thu nhập thấp xây dựng ở những địa điểm nằm xa trung tâm, giao thông không thuận tiện, hạ tầng chưa đầy đủ, do đó không thu hút được người dân vào ở,...

Ngày 22/1/2018, Chính phủ có Quyết định 117/QĐ-TTg quyết định mức lãi suất cho vay ưu đãi của các tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định theo quy định tại Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội. 

Theo đó, mức lãi suất cho vay ưu đãi của các tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định áp dụng trong năm 2018 đối với dư nợ của các khoản cho vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở theo quy định tại Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội là 5%/năm. 

Đối tượng được vay vốn để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở là các đối tượng quy định tại các Khoản 1, 4, 5, 6 và 7 Điều 49 của Luật Nhà ở.

Mức vốn vay khi mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội tối đa bằng 80% giá trị hợp đồng mua, thuê, thuê mua nhà. Trường hợp xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở thì mức vốn cho vay tối đa bằng 70% giá trị dự toán hoặc phương án vay và không vượt quá 70% giá trị tài sản bảo đảm tiền vay.

Quyết định 117 có thể là đòn bẩy giúp phân khúc nhà thu nhập thấp “tỏa sáng” trong năm 2018.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ