VN-Index tăng hơn 100 điểm sau 1 tháng

Nhàđầutư
Sau nhiều tuần tăng điểm liên tiếp, VN-Index hiện đang ở mức 1.225,98 điểm, tương ứng tăng gần 106 điểm chỉ sau 1 tháng.
KHÁNH AN
06, Tháng 08, 2023 | 07:53

Nhàđầutư
Sau nhiều tuần tăng điểm liên tiếp, VN-Index hiện đang ở mức 1.225,98 điểm, tương ứng tăng gần 106 điểm chỉ sau 1 tháng.

Empty

Ảnh Gia Huy

VN-Index kết tuần 31/7 – 4/8 tại mức 1.225,98 điểm, tăng 1,6% (tương ứng tăng 18,31 điểm) so với tuần trước, đây cũng là tuần thứ 5 liên tiếp chỉ số này tăng điểm. Như vậy, kể từ phiên 30/6 đến nay, VN-Index đã tăng gần 106 điểm.

Trong tuần này, xét theo mức độ đóng góp, BID, SSB và VCB là những mã có tác động tiêu cực nhất đến VN-Index. Ở chiều ngược lại, VHM, VIC và ACB là những mã có tác động tích cực nhất. Tính riêng VIC đã bù lại hơn 4 điểm cho chỉ số.

Trong tuần thanh khoản trên HoSE đạt 114.136 tỷ đồng tăng 11,2%, khối lượng giao dịch tăng nhẹ 5,9% so với tuần trước. Thanh khoản HNX tăng 7,2% với 9.886,94 tỷ đồng được giao dịch.

Nhà đầu tư nước ngoài mua ròng tuần thứ ba với giá trị 79,19 tỷ đồng, duy trì mua ròng trên HNX với giá trị 66,59 tỷ đồng.

Trong khi đó, nhà đầu tư cá nhân bán ròng 379 tỷ đồng trên HoSE. Tính riêng khớp lệnh họ mua ròng 470 tỷ đồng, mạnh nhất là các mã HPG (+417,4 tỷ đồng), MWG (+366,5 tỷ đồng), TCB (+268,8 tỷ đồng), CTD (+161,6 tỷ đồng), VCB (+140,2 tỷ đồng).

Về diễn biến nhóm ngành, nhóm cổ phiếu bất động sản tiếp tục có diễn biển nổi bật nhất trong tuần, nhiều mã thu hút dòng tiền, thanh khoản đột biến như VIC (+20,78%), QCG (+12,6%), TCH (+10,68%), NBB (+8,78%), NVL (+7,9%).. Nhóm cổ phiếu ngân hàng cũng có diễn biến rất tích cực với SGB (+34,48%), EIB (+16,38%), ACB (+9,91%),  LPB (+5,83%), SHB (+5,56%)...

Với diễn biến trên, SHS cho rằng VN-Index chưa có nhịp điều chỉnh đủ mạnh để rũ bỏ và củng cố lại xu hướng nên khả năng thị trường có rung lắc trong tuần tới là có thể xảy ra, do đó nhà đầu tư ngắn hạn cần thận trọng và chỉ nên giải ngân trong các phiên điều chỉnh. Trong trung, dài hạn thị trường đã hình thành uptrend và mục tiệu VN-Index hướng tới sẽ là khu vực 1.300 điểm. Trong trường hợp cần giải ngân thêm có thể tận dụng các phiên điều chỉnh để gia tăng tỷ trọng, nên lựa chọn các cổ phiếu đầu ngành có nền tảng cơ bản tốt, các cố phiếu có tiềm năng tăng trưởng ổn định đang vận động trong trạng thái tích lũy hiện nay.

Về góc nhìn kỹ thuật, VCBS nhận định với diễn biến hiện tại, VN-Index vẫn sẽ có những phiên tăng điểm, bám sát lại khu vực kháng cự ngắn hạn quanh 1.230 trước khi xuất hiện những nhịp rung lắc mạnh và bất ngờ hơn. Nhà đầu tư nên duy trì danh mục tài khoản, cân nhắc giải ngân thêm từ 20 – 30% đối với những cổ phiếu đã khả dụng và đang có xu hướng vượt lên trên khu vực kháng cự thuộc các nhóm ngành thu hút dòng tiền tốt như bất động sản, chứng khoán.

Tương tự, KBSV dự báo mặc dù áp lực điều chỉnh sẽ còn tiếp diễn trong các phiên tới, song VN-Index đang có nhiều cơ hội mở rộng nhịp hồi phục và thử thách lại ngưỡng cản quanh 1.23x. Nhà đầu tư được khuyến nghị giao dịch cân bằng, bán hạ tỷ trọng tại các nhịp vượt đỉnh và chỉ mua trở lại khi chỉ số về quanh ngưỡng hỗ trợ.

Cùng chung quan điểm, VDSC cho rằng với mức tăng được giữ khá tốt vào phiên giao dịch cuối tuần, dòng tiền có thể tiếp tục hoạt động tích cực vào đầu tuần tới và giúp thị trường trở lại vùng 1.230 – 1.235 điểm. Hoạt động tranh chấp và thăm dò cung cầu có thể sẽ xuất hiện tại vùng này. Do vậy, nhà đầu tư cần quan sát trạng thái cung cầu tại vùng cản. Hiện tại vẫn có thể nắm giữ hoặc khai thác cơ hội ngắn hạn tại cổ phiếu đang có tín hiệu tốt từ dòng tiền. Tuy nhiên vẫn cần cân nhắc khả năng hồi phục để chốt lời hoặc giảm tỷ trọng tại các cổ phiếu đang ở vùng kháng cự hoặc đang có tín hiệu phân phối để giảm thiểu rủi ro cho danh mục.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25455.00
EUR 26817.00 26925.00 28131.00
GBP 31233.00 31422.00 32408.00
HKD 3182.00 3195.00 3301.00
CHF 27483.00 27593.00 28463.00
JPY 160.99 161.64 169.14
AUD 16546.00 16612.00 17123.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18239.00 18312.00 18860.00
NZD   15039.00 15548.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3601.00 3736.00
SEK   2307.00 2397.00
NOK   2302.00 2394.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ