Thu nhập không nhiều cải thiện khiến người lao động bỏ ngỏ giấc mơ an cư

Nhàđầutư
Năm ngoái, thu nhập bình quân tháng của người lao động là 7,1 triệu đồng, chỉ tăng 459.000 đồng so với năm 2022. Trong khi, giá nhà liên tục tăng nóng, khiến giấc mơ an cư chốn thành thị của người lao động dang dở.
VŨ PHẠM
03, Tháng 04, 2024 | 11:01

Nhàđầutư
Năm ngoái, thu nhập bình quân tháng của người lao động là 7,1 triệu đồng, chỉ tăng 459.000 đồng so với năm 2022. Trong khi, giá nhà liên tục tăng nóng, khiến giấc mơ an cư chốn thành thị của người lao động dang dở.

Savills Việt Nam vùa công bố chỉ số giá bất động sản (BĐS) quý IV/2023 cho 2 thị trường chính là TP.HCM và Hà Nội.

Theo đó, tại Hà Nội, chỉ số giá nhà ở tăng 3 điểm % theo quý lên 134,9. Con số này đã tăng 30% kể từ khi chạm đáy ở mức 104,1 vào quý III/2019. Diện tích thuần (NSA) có giá trung bình 41 triệu đồng/m2, tăng 3% theo quý. Do nguồn cung sơ cấp hạn chế, nhu cầu thị trường cao, cơ sở hạ tầng phát triển và chất lượng cải thiện đã khiến giá BĐS BĐS ở Hà Nội tăng cao.

Trong quý, tỷ lệ hấp thụ ở Hà Nội tăng 26%, tăng 15 điểm % theo quý và 12 điểm % theo năm. Nguồn cung mới chiếm 43% thị phần doanh số và được hấp thụ 46%. Các khu đô thị lớn chiếm 61% doanh số bán, phản ánh nhu cầu tiếp tục tăng đối với các khu vực ngoại thành.

Empty

Giá căn hộ chung cư tại TP.HCM và Hà Nội được dự báo tiếp tục tăng trong thời gian tới. Ảnh: VP

Tại TP.HCM, chỉ số giá BĐS nhà ở tăng 2 điểm theo quý lên 126 điểm. Giá BĐS thứ cấp ổn định ở 12 quận và tăng ở 4 quận, nhưng giảm 1 điểm so với cùng kỳ năm 2022. Giá sơ cấp trở về cùng mức với năm 2020, ở mức 69 triệu đồng/m2 diện tích thuần sau khi 3 dự án hạng A tạm dừng bán và rút nguồn cung.

Tỷ lệ hấp thụ ở TP.HCM cải thiện 14 điểm % theo quý và 23 điểm % theo năm để đạt 40%. Sự cải thiện đến từ sản phẩm mới có giá bán hợp lý từ 3-4 tỷ đồng/căn, cũng như pháp lý hoàn thiện trước khi ra mắt và kế hoạch thanh toán dài hạn. Nguồn cung mới chiếm 78% tổng số căn bán theo quý với tỷ lệ hấp thụ 84%, phản ánh nhu cầu cao đối với các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người mua.

Đặc biệt, Savills cho biết, nhóm hàng tồn kho ở TP.HCM gặp khó khăn với mức hấp thụ khiêm tốn 14%.

Thu nhập thấp khiến người dân khó sở hữu nhà ở

Trong khi đó, dữ liệu của Hội môi giới BĐS Việt Nam (VARS) cũng cho thấy điều tương tự. Cụ thể, chỉ số giá căn hộ tại Hà Nội năm 2023 đã tăng khoảng 38 điểm % so với năm 2019, TP.HCM là 16 điểm %.

VARS đánh giá, giá căn hộ tại Hà Nội ghi nhận liên tục tăng trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp. Còn tại TP.HCM, giá căn hộ cũng đã bắt đầu bước vào chu kỳ tăng giá trở lại cùng với đà giảm giá chậm dần ở các dự án cao cấp, hạng sang trên thị trường thứ cấp.

Ghi nhận thực tế của Nhadautu.vn trong cả năm 2023 cho thấy, dù thị trường BĐS trầm lắng nhưng giá nhà ở vẫn không giảm. Các doanh nghiệp BĐS cũng đua nhau tung ra những chính sách "chưa từng có" nhằm vớt vát doanh thu nhưng thanh khoản là không đáng kể. Lượng hàng tồn kho tăng cao chủ yếu nằm ở phân khúc hạng sang, cao cấp hoặc phân khúc giá không phù hợp với đại đa số người dân. Thị trường Hà Nội và TP.HCM gần như không có dự án mới có mức giá dưới 50 triệu đồng/m2.

Người dân, người lao động… luôn có nhu cầu ở, tuy nhiên khi thu nhập chưa có nhiều cải thiện trong khi giá nhà vẫn tăng thì việc mua nhà là điều "không tưởng".

Số liệu của Tổng cục Thống kê chỉ ra, năm 2023, thu nhập bình quân tháng của người lao động là 7,1 triệu đồng, tăng 459.000 đồng so với năm 2022. Thu nhập bình quân tháng của lao động nam là 8,1 triệu đồng, cao gấp 1,36 lần thu nhập bình quân tháng của lao động nữ (6 triệu đồng).

Thử làm một phép tính đơn giản, một gia đình thu nhập 1 tháng khoảng 15 triệu đồng, 1 năm tiết kiệm được 100 triệu đồng muốn 1 căn hộ có giá khoảng 2-3 tỷ đồng, họ cũng phải mất khoảng 25 năm mới có thể mua được. Dẫu vậy, hiện nay, ở TP.HCM và Hà Nội không có căn hộ chung cư mới nào có mức giá 2 tỷ đồng nên để mua được nhà họ có thể mất tới vài chục năm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ