Lãi suất cho vay cần được giảm thêm 2%/năm để phục hồi đầu tư

Nhàđầutư
Hội Môi giới bất động sản Việt Nam cho rằng, để kích thích, phục hồi đầu tư, lãi suất cho vay cần giảm thêm khoảng 2%/năm và cần có điều kiện, thủ tục cho vay linh hoạt hơn.
VŨ PHẠM
26, Tháng 01, 2024 | 09:14

Nhàđầutư
Hội Môi giới bất động sản Việt Nam cho rằng, để kích thích, phục hồi đầu tư, lãi suất cho vay cần giảm thêm khoảng 2%/năm và cần có điều kiện, thủ tục cho vay linh hoạt hơn.

Theo Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS), nhiều ngân hàng tư nhân đã điều chỉnh lãi suất huy động xuống mức thấp kỷ lục, dao động quanh mức 5%/năm với kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Dự kiến, việc này sẽ kích thích dòng tiền trong dân cư đổ vào bất động sản (BĐS), một kênh đầu tư hấp dẫn hơn so với tiết kiệm ngân hàng. Tuy nhiên, dòng tiền vẫn chưa quay trở lại thị trường BĐS, đặc biệt là đối với các sản phẩm có giá trị lớn.

Cụ thể, đến hết quý III/2023, tiền gửi tiết kiệm của người dân trong hệ thống ngân hàng đạt hơn 6,449 triệu tỷ đồng, tăng 9,95% so với cuối năm 2022. Tuy nhiên, dư nợ tín dụng chi tiêu cho mua BĐS lại giảm gần 2%, đây là năm đầu tiên tín dụng tiêu dùng BĐS có chiều hướng giảm trong 3 năm qua. Ngược lại, dư nợ kinh doanh BĐS tăng trưởng 21,86%, vượt xa tốc độ tăng trưởng của cả năm 2022 là 10,73%.

Kết quả báo cáo tài chính quý III/2023 của nhiều ngân hàng cũng tái hiện xu hướng tương tự, với dư nợ tín dụng kinh doanh BĐS tăng mạnh, trong khi cho vay mua nhà để ở vẫn tăng chậm.

dau-tu-bat-dong-san

Dòng tiền vẫn chưa quay trở lại thị trường BĐS. Ảnh: M.Phượng

VARS cho biết, tình hình khó khăn trong kinh tế và ngành BĐS tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến sức cầu trên thị trường và giao dịch chủ yếu tập trung vào sản phẩm có giá dưới 3 tỷ đồng từ khách hàng có sẵn tiền mặt. Trái lại, sản phẩm đầu tư giá trị cao vẫn tồn kho do cơ chế và điều kiện vay vốn phức tạp và chặt chẽ, khiến nhiều người không muốn đầu tư vào bất động sản có giá trị lớn.

Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và tiền vay vẫn cao, khiến nhiều người dân lo ngại về việc vay vốn do khả năng lãi suất tăng trở lại. Thậm chí sau khi Thông tư 06/2023 giảm lãi suất, thủ tục vay vẫn phức tạp và chi phí phát sinh lớn, khiến nhiều người e ngại.

VARS cho rằng, để kích thích và phục hồi đầu tư, lãi suất cho vay cần giảm thêm khoảng 2%/năm và cần có các điều kiện và thủ tục linh hoạt hơn. Đồng thời, đề xuất các chính sách tăng nguồn cung để thúc đẩy lực cầu, bao gồm nghiên cứu, xây dựng cơ chế ưu đãi phát triển nhà ở giá phù hợp, điều chỉnh chính sách mua, vay mua nhà ở xã hội và khắc phục bất cập trong xác định giá đất.

Trong khi đó, chuyên gia kinh tế, TS Đinh Thế Hiển nhìn nhận, dù có nhiều dự báo tích cực về tình hình kinh tế vĩ mô như giảm lãi suất tiền gửi, ổn định chỉ số CPI và tỷ giá, nhưng nguy cơ “kẹt” dòng tiền vào BĐS vẫn là vấn đề quan trọng.

"Năm nay, dòng tiền sẽ có dấu hiệu cải thiện và chảy vào lĩnh vực BĐS, tuy nhiên, sự hồi phục sẽ diễn ra từ từ chứ không phải là một sự đổ dồn đột ngột. Nền kinh tế và tiêu dùng nội địa cần thêm cả năm 2024 để vượt qua những thách thức", ông nói.

Vị chuyên gia này đánh giá, việc đầu cơ BĐS theo kiểu cũ (2020-2022) và các loại kinh doanh BĐS siêu lợi nhuận không còn phù hợp trong giai đoạn hiện tại. Vì vậy, khi lập kế hoạch kinh doanh, nhà đầu tư cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng trong vòng 2 năm để sẵn sàng nắm bắt cơ hội mới, bất kể là trong lĩnh vực kinh doanh hay đầu tư BĐS.

Số liệu của Bộ Xây dựng cho thấy, tính đến hết tháng 11/2023, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh BĐS đạt hơn 1 triệu tỷ đồng.

Cụ thể, dư nợ tín dụng đối với các dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, dự án phát triển nhà ở là 283.876 tỷ đồng; dư nợ tín dụng đối với các dự án văn phòng là 39.096 tỷ đồng; dư nợ tín dụng đối với các dự án xây dựng khu công nghiệp, chế xuất là 67.557 tỷ đồng.

Dư nợ đối với các dự án khu du lịch, sinh thái, nghỉ dưỡng là 45.177 tỷ đồng; dư nợ tín dụng đối với cho vay xây dựng, sửa chữa, nhà để bán cho thuê là 123.083 tỷ đồng; dư nợ tín dụng đối với cho vay mua quyền sử dụng đất là 68.694 tỷ đồng; dư nợ đối với đầu tư kinh doanh BĐS khác là 335.565 tỷ đồng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ