Kinh tế trưởng VinaCapital kỳ vọng VN-Index tăng 20% trong năm 2023

Nhàđầutư
Ông Michael Kokalari tin rằng giai đoạn giảm điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đã kết thúc và có sự đồng thuận về kỳ vọng VN-Index sẽ tăng hơn 20% với sự phục hồi về cơ bản, nhờ sự cải thiện ở cả yếu tố trong nước và quốc tế vốn đã tạo áp lực lên thị trường trong năm ngoái.
HỮU BẬT
08, Tháng 02, 2023 | 08:16

Nhàđầutư
Ông Michael Kokalari tin rằng giai đoạn giảm điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đã kết thúc và có sự đồng thuận về kỳ vọng VN-Index sẽ tăng hơn 20% với sự phục hồi về cơ bản, nhờ sự cải thiện ở cả yếu tố trong nước và quốc tế vốn đã tạo áp lực lên thị trường trong năm ngoái.

vinacapital-ly-giai-thi-truong-giam-1

Ông Michael Kokalari, CFA, Chuyên gia Kinh tế trưởng VinaCapital. Ảnh: VinaCapital.

Ông Michael Kokalari, CFA, Chuyên gia Kinh tế trưởng VinaCapital vừa đưa ra những đánh giá triển vọng nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2023.

Theo nhận định từ ông, nền kinh tế đang quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng dài hạn khi giai đoạn bùng nổ sau COVID đã kết thúc. Chuyển động thị trường gần đây đã cho thấy giai đoạn giảm điểm của VN-Index đang kết thúc – giảm 33% trong năm 2022 bất chấp tốc độ tăng trưởng GDP nhanh nhất của Việt Nam trong 25 năm.

Trong năm 2023, kinh tế trưởng VinaCapital dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ chậm lại về mức 6%, do chịu tác động lớn bởi nhu cầu với các sản phẩm “Made in Vietnam” từ người tiêu dùng Mỹ/EU chậm lại nhưng được hỗ trợ bởi sự phục hồi của lượng khách du lịch quốc tế tới Việt Nam trong bối cảnh Trung Quốc mở cửa trở lại và sự gia tăng giải ngân cho cơ sở hạ tầng của Chính phủ.

Ngoài ra, thị trường chứng khoán hồi phục mạnh mẽ vì các yếu tố trong và ngoài nước tác động lên thị trường năm ngoái đã được giải quyết. Cụ thể, áp lực lạm phát toàn cầu đang giảm bớt và VinaCapital kỳ vọng Chính phủ Việt Nam sẽ giải quyết những lo ngại về khả năng các tập đoàn trong nước có thể tái tài trợ 5 tỷ USD trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm nay. Đây là một trong những yếu tố chính tạo áp lực lên VN-Index trong năm ngoái.

Ngoài ra, sự duy trì các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn bao gồm dòng vốn FDI vẫn tiếp tục chảy vào Việt Nam do sự gia tăng căng thẳng thương mại Mỹ-Trung vào năm ngoái; quá trình đô thị hóa và nhân khẩu học sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng liên tục của tầng lớp trung lưu mới nổi và tiêu dùng nội địa Việt Nam.

Không những thế, ông Michael Kokalari cũng kỳ vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam sẽ duy trì ổn định trong năm nay. Theo đó, giá trị của đồng VND đã mất 3% trong năm 2022, trong khi các các đồng tiền trong khu vực thị trường mới nổi mất giá 7%.

“Chúng tôi cho rằng giá trị VND tăng 2-3% trong năm nay. Lạm phát CPI của Việt Nam trung bình là 3% trong năm 2022 thấp hơn nhiều so với các thị trường cận biên/mới nổi trên thế giới. VinaCapital dự báo chỉ số này của Việt Nam sẽ tăng lên 4% trong năm 2023, phần lớn là do Trung Quốc mở cửa trở lại có khả năng gây áp lực lên giá thực phẩm và năng lượng tại Việt Nam”, ông phân tích.

Giai đoạn giảm điểm của VN-Index đang kết thúc

VN-Index đã giảm 33% trong năm 2022 (hoặc 35% nếu tính bằng USD), vì vậy tỷ lệ P/E năm 2022 của thị trường giảm từ 20x vào cuối năm 2021 xuống còn 12x vào cuối năm 2022 (EPS tăng ước tính 5% vào năm ngoái).

Sự sụt giảm của VN-Index năm ngoái, bất chấp tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nhanh nhất trong 25 năm, là do ba yếu tố tiêu cực gồm: Thị trường chứng khoán toàn cầu suy yếu (bao gồm việc S&P500 giảm 20% vào năm ngoái) do Ngân hàng Trung ương Mỹ và các ngân hàng trung ương khác tăng lãi suất mạnh mẽ; giá trị của đồng USD tăng tới 20% vào cuối năm 2022 (đồng USD tăng giá  gây bất lợi cho các thị trường chứng khoán mới nổi); và các vấn đề trong nước, bao gồm ba vụ bắt giữ các lãnh đạo cấp cao các doanh nghiệp và việc chỉnh đốn của Chính phủ đã tác động đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng như một số nhà phát triển bất động sản.

Ông Michael Kokalari tin rằng giai đoạn giảm điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đã kết thúc và có sự đồng thuận về kỳ vọng VN-Index sẽ tăng hơn 20% với sự phục hồi về cơ bản, nhờ sự cải thiện ở cả yếu tố trong nước và quốc tế vốn đã tạo áp lực lên thị trường trong năm ngoái.

Đặc biệt, áp lực lạm phát toàn cầu hiện đang giảm bớt, điều đó có nghĩa là việc tăng lãi suất mạnh mẽ của các ngân hàng trung ương làm suy yếu các thị trường chứng khoán phát triển lẫn mới nổi vào năm ngoái có thể sẽ sớm kết thúc.

Chuyên gia VinaCapital kỳ vọng Chính phủ sẽ thực hiện các bước để giảm bớt các vấn đề thanh khoản hiện đang tác động đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam, điều này sẽ dẫn đến việc nối lại khả năng tái cấp vốn cho các khoản nợ đáo hạn của các công ty Việt Nam.

Ông Michael Kokalari nhìn nhận:“Theo quan điểm của chúng tôi, việc niềm tin trở lại TTCK Việt Nam sẽ là một quá trình kéo dài nhưng định giá hấp dẫn và triển vọng tăng trưởng lợi nhuận vững chắc của thị trường có lẽ giải thích tại sao các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu Việt Nam trị giá 1,1 tỷ USD trong hai tháng cuối năm 2022. Họ cũng là những người mua ròng của TTCK Việt Nam cho cả năm 2022, lần đầu tiên kể từ năm 2019 (với dự kiến tăng trưởng lợi nhuận 7% của VN-Index vào năm 2023, theo Bloomberg)”.

Nhóm ngành đầu tư nổi bật trong năm 2023

Chuyên gia VinaCapital chỉ ra các chủ đề đầu tư tiêu biểu như tiêu dùng trong nước, cơ sở hạ tầng và đầu tư FDI trong năm 2023 và các đối tượng hưởng lợi từ lãi suất thấp và sự hợp nhất.

Về tiêu dùng trong nước, sự tăng trưởng của tầng lớp trung lưu Việt Nam đang thúc đẩy sự tăng trưởng chắc chắn về nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ mà nhóm người tiêu dùng này mong muốn, sẽ mang lại lợi ích cho các công ty hàng tiêu dùng không thiết yếu. Điều này cũng mang lại lợi ích cho các công ty dịch vụ tài chính vì nhu cầu về khoản vay thế chấp, thẻ tín dụng và các sản phẩm tài chính tiêu dùng/ tín dụng tiêu dùng khác tăng lên, cũng như mong muốn về gửi tiết kiệm và sản phẩm đầu tư. 

Các công ty hàng không tại Việt Nam cũng được hưởng lợi từ sự tăng trưởng liên tục của tầng lớp trung lưu mới nổi trong nước vì nhu cầu du lịch trong và ngoài nước của  phân khúc khách hàng này và việc Trung Quốc mở cửa trở lại cũng sẽ thúc đẩy nhu cầu về dịch vụ hàng không.

Cơ sở hạ tầng đã là một chủ đề đầu tư nhất quán của Việt Nam trong nhiều năm. Sự tập trung của Chính phủ trong đầu tư công trong năm nay làm chúng tôi đặc biệt lạc quan về triển vọng của các công ty được hưởng lợi từ việc tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm các công ty vật liệu xây dựng và các công ty hàng không được hưởng lợi từ việc xây dựng các sân bay mới.

Tiếp theo, dòng vốn FDI là một trong những động lực tăng trưởng chính của Việt Nam trong những năm gần đây và như đã đề cập ở trên, dòng vốn FDI đã tăng 14% trong năm ngoái và có khả năng tăng trưởng với mức độ tương tự trong năm nay, khi ngày càng có nhiều nhà máy chuyển từ Trung Quốc hoặc thành lập tại Việt Nam thay vì ở Trung Quốc. Những dòng vốn này cũng mang lại lợi ích trực tiếp cho các nhà phát triển khu công nghiệp, cảng biển và nhà phát triển bất động sản với dự án gần các nhà máy có nguồn vốn từ FDI.

Kế đến, lãi suất tại Việt Nam có thể sẽ giảm theo tiến độ năm 2022 vì giá trị của VND đã bắt đầu tăng và có khả năng tiếp tục tăng và vì áp lực lạm phát toàn cầu đang giảm bớt. Lãi suất thấp hơn sẽ mang lại lợi ích cho các bên môi giới, bất động sản và các công ty có dư nợ cao, mặc dù lãi suất thấp hơn có thể làm giảm thu nhập của các ngân hàng và công ty có số dư tiền mặt đáng kể.

Cuối cùng, môi trường kinh doanh ngày càng khó khăn hơn ở Việt Nam có thể thúc đẩy một số sự hợp nhất giữa các ngân hàng, công ty tiêu dùng và các nhà phát triển bất động sản và/ hoặc hợp nhất các dự án phát triển bất động sản riêng lẻ. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ