Hoãn một số điều Thông tư 06, ngân hàng nào 'hưởng lợi'?

Nhàđầutư
Techcombank, LPBank, SHB, VPBank, HDBank và MSB là những ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực bất động sản và xây dựng cao (từ 17 - 35%/ tổng dư nợ tín dụng tính đến cuối tháng 6/2023). Đây có thể là nhóm ngân hàng "hưởng lợi" từ việc hoãn một số điều của Thông tư 06.
ĐÌNH VŨ
27, Tháng 08, 2023 | 07:00

Nhàđầutư
Techcombank, LPBank, SHB, VPBank, HDBank và MSB là những ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực bất động sản và xây dựng cao (từ 17 - 35%/ tổng dư nợ tín dụng tính đến cuối tháng 6/2023). Đây có thể là nhóm ngân hàng "hưởng lợi" từ việc hoãn một số điều của Thông tư 06.

Ngan hang Coc tien May dem tien 3

Một số ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản và xây dựng cao được cho là sẽ "hưởng lợi" từ việc hoãn một số điều của Thông tư 06. Ảnh: Trọng Hiếu.

Ngày 23/8, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 10/2023/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 06/2023/TT-NHNN. Theo đó, hiệu lực thi hành khoản 8, khoản 9 và khoản 10 thuộc Điều 8 của Thông tư 06 sẽ được tạm ngưng thay vì áp dụng từ 1/9/2023.

Khoản 8,9 và 10 của Thông tư 06 quy định những nhu cầu vốn ngân hàng không được phép cho vay, gồm: Để góp vốn, mua phần góp vốn của công ty tư nhân và công ty cổ phần chưa đăng ký giao dịch trên Upcom; Để góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án đầu tư không đủ điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định của pháp luật và; Để bù đắp tài chính, trừ trường hợp đáp ứng các điều kiện cụ thể.

Đánh giá tác động của Thông tư 10, Chứng khoán ACBS cho rằng, đối với ngành bất động sản, Thông tư 10 nằm trong chủ trương hỗ trợ của Chính phủ đối với thị trường bất động sản nói riêng và tăng trưởng tín dụng nói chung. Việc tạm ngưng thi hành các khoản mục trên sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp bất động sản đang gặp khó khăn có cơ hội tái cơ cấu lại thông qua chuyển nhượng vốn tại các dự án cho các nhà đầu tư có năng lực vận hành tốt hơn hoặc thông qua cơ chế hợp tác kinh doanh với đối tác.

Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có hành lang pháp lý để có thể cho vay đối với người đi mua bất động sản chưa có đủ điều kiện kinh doanh (giấy phép bán hàng), nhưng đã đủ các điều kiện về pháp lý. Bên cạnh đó, điều này cũng sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp bất động sản trong việc đi vay để đầu tư, mở rộng quỹ đất hoặc đầu tư vào một dự án mới. Hầu hết các doanh nghiệp bất động sản đều có thể hưởng lợi từ Thông tư này. 

Về tác động đến ngành ngân hàng, ACBS cho rằng các điều chỉnh trên sẽ góp phần hỗ trợ cho tăng trưởng tín dụng, vốn đang ở mức thấp trong thời gian gần đây (đến cuối tháng 7 chỉ tăng 4,56% so với đầu năm, giảm 0,17% so với thời điểm cuối tháng 6).

Thông tư mới ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi trong việc giải ngân tín dụng đối với các ngân hàng ưa thích cho vay lĩnh vực bất động sản. Tại thời điểm cuối tháng 6/2023, các ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực bất động sản và xây dựng cao bao gồm TCB (35,5%), LPB (31,6%), SHB (27,3%), VPB (22,5%), HDB (19,0%) và MSB (17,9%)...

Trên thực tế, mỗi ngân hàng sẽ có khẩu vị rủi ro riêng và vẫn có thể sẽ không chủ động giải ngân đối với các dự án và khoản vay mà họ đánh giá là có rủi ro cao.

Ở góc nhìn dài hạn, Chứng khoán Rồng Việt - VDSC cho rằng, Thông tư 06/2023/TT-NHNNN sửa đổi chỉ là bước đi tạm thời, có tính trì hoãn kéo dài để hỗ trợ cho quá trình tái cấu trúc của các doanh nghiệp ngành bất động sản.

“Chính sách tiền tệ nới lỏng cần hướng tới sự phát triển chung của nền kinh tế, tuy nhiên, thực tế nền kinh tế lại phụ thuộc lớn vào lĩnh vực bất động sản. Vì vậy, việc tăng trưởng bền vững chỉ đạt được khi các chính sách và môi trường kinh doanh của lĩnh vực bất động sản công khai, minh bạch và công bằng hơn”, VDSC lưu ý.

Mặt khác, trong dài hạn, sự phụ thuộc vào ngành bất động sản cũng cần giảm dần, thay vào đó là việc khởi tạo các mô hình, ngành nghề mới có tính đổi mới, sáng tạo và giá trị gia tăng cao hơn.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ