Đại dịch COVID-19: Tăng trưởng toàn cầu và đối sách Việt Nam

Đại dịch Covid-19 đã trở thành thảm họa toàn cầu, làm đảo lộn mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội con người. Tình hình còn rất phức tạp, khó lường. Dù cả thế giới đang nỗ lực chống dịch nhưng đến nay vẫn chưa thể đoán chắc về mức độ và thời gian kéo dài của đại dịch Covid-19.
TS. VÕ TRÍ THÀNH
01, Tháng 05, 2020 | 07:00

Đại dịch Covid-19 đã trở thành thảm họa toàn cầu, làm đảo lộn mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội con người. Tình hình còn rất phức tạp, khó lường. Dù cả thế giới đang nỗ lực chống dịch nhưng đến nay vẫn chưa thể đoán chắc về mức độ và thời gian kéo dài của đại dịch Covid-19.

Tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong và sau đại dịch Covid-19

Đại dịch Covid-19 đã trở thành thảm họa toàn cầu, làm đảo lộn mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội con người. Kinh tế thế giới ngày càng bị tổn thương nặng nề cùng với sự lây lan và bùng phát dịch bệnh, đặc biệt là từ Trung Quốc sang các nền kinh tế phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Tác động là vô cùng nghiêm trọng, có thể còn lớn hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009. Kinh tế thế giới, vốn đã giảm tốc từ năm 2019, đã bước vào suy thoái. Nhiều đánh giá gấn đây cho thấy nếu dịch bệnh chậm được đầy lùi hiệu quả, kinh tế thế giới sẽ có tăng trưởng âm và thậm chí rơi vào khủng hoảng hàng nghìn tỷ USD bị cuốn trôi. Hàng loạt thị trường chứng khoán chủ chốt giảm điểm trên dưới 30%, thất nghiệp tăng mạnh chưa từng có, chỉ riêng ở Mỹ, đã có tới gần 10 triệu đơn xin thất nghiệp trong 2 tuần cuối thàng 3.

Cả tổng cầu và tổng cung đều “rơi”. Tiêu dùng, ngoại trừ hàng hóa thiết yếu, cũng như đầu tư và xuất khẩu đều sụt giảm mạnh. Sản xuất kinh doanh đình trệ do lao động thiếu hụt và cả chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ gián đoạn, đứt gãy do các biện pháp “ngăn cách” địa giới cùng “giãn cách xã hội” trong từng và giữa các quốc gia để chống dịch. Sự bất an và cả tâm lý hoang mang càng làm gia tăng những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.

Nhiều nước, cả phát triển, mới nổi và đang phát triển, đã phải dùng các “gói” cứu trợ và hỗ trợ kinh tế chưa từng có tiền lệ, cả về qui mô (hàng chục, hàng trăm và hàng nghìn tỷ USD, chiếm tỷ trọng cao so với GDP); công cụ (nới lỏng chính sách tiền tệ, giảm mạnh lãi suất, mua tài sản, đặc biệt trái phiếu chính phủ, không hạn định; mở rộng tài khóa, chi trực tiếp cho mọi người dân, miễn, giảm, giãn, hoãn thuế, phí, nhất là cho khu vực doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, hỗ trợ mạnh các ngành chịu thiệt hại lớn,...) cùng việc kích hoạt các đạo luật hành động khẩn cấp/thời chiến và trao quyền quyết định và thục thi cho chính phủ. Các tổ chức quốc tế như World Bank, IMF, ADB... cũng dành nhiều tỷ USD hỗ trợ khẩn cấp các nước chống dịch và giảm thiểu thiệt hại kinh tế-xã hội do đại đich Covid-19 gây ra.

kinh-te

Các chuỗi giá trị đứt gãy do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19

Tình hình còn rất phức tạp, khó lường. Dù cả thế giới đang nỗ lực chống dịch, nghiên cứu, tìm kiếm vắc-xin, thuốc đặc trị hiệu quả, đến nay vẫn chưa thể đoán chắc về mức độ và thời gian kéo dài của đại dịch Covid-19. Diến biến dịch là hình parabol ngược, cũng có thể theo hình sin và lại khác nhau giữa các quốc gia Hiệu lực những phản ứng chính sách kinh tế-xã hội của các quốc gia và các tổ chức quốc tế cũng chưa thật rõ. Như một chuyến gia của JPMorgan Chase đã nói: Mối quan hệ giữa diễn biến của dịch bệnh, tác động từ các biện chống dịch và các chính sách hỗ trợ kinh tế là không đơn giản. Chính vì vậy, nhiều dự báo đã được đưa ra về diễn biến cùng khả năng phục kinh tế thế giới trong năm 2020 và 2021.

Trong bối cảnh chung, các nền kinh tế Đông Á được đánh giá có khả năng cao hơn trong vượt qua cơn địa chấn Covid-19. Khu vực này có kinh nghiệm chống đại dịch SARS năm 2003 và đang chống dịch cókếtquảhơnChâuÂuvàBắcMỹ.Cáccôngtyởđây cũng có quỹ tiền mặt lớn, trong khi đa số các ngân hàng trung ương còn dư địa cắt giảm lãi suất.

Nhung dù thế nào, khả năng cao là kiểu hình “dấu tick” (như trên đồ thể thao Nike). Lý do là sự phục hồi sẽ diễn ra với tốc độ chậm hơn ít nhiều vì các biện pháp “ngăn cách” địa giới cùng “giãn cách xã hội” được dỡ bỏ một cách thận trọng, nhất là khi dịch được khống chế vào các thời điểm khác nhau ở các nước khác nhau. Thêm nữa, cũng cần thời gian để thị trường và hành vi tiêu dùng ổn định trở lại.

Vẫn còn một trở ngại rất lớn cho quá trình phục hồi là rủi ro bất ổn, thậm chi khủng hoảng tài chính. Ngay cho đến cuối năm 2019, rủi ro này đã cao do vấn đề nợ toàn cầu và việc nhiều ngân hàng TW hạ lãi suất, nới lỏng tiền tệ. Theo Báo cáo của World Bank tháng 2/2020, từ năm 1970 đến 2010 đã có ba làn sóng nợ nần, bắt đầu trong giai đoạn lãi suất thấp gắn với những sáng tạo tài chính và việc thúc đẩy vay mượn. Chúng đều kết thúc bằng khủng hoảng tài chính và suy thoái (1982, 1991, 2009) hoặc suy giảm tăng trưởng toàn cầu (1998, 2001). Làn sóng nợ nần lần thứ tư, bắt đầu từ năm 2010, là lớn nhất về qui mô, về tốc độ tích đọng và phạm vị bao phủ, nhất là tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Đại dịch và các “gói” cứu trợ chưa có tiền lệ làm thanh khoản thêm tràn lan và nợ nần công ty, chính phủ gia tăng, có thể kích nổ “quả bom” nợ nần toàn cầu. Tăng cường khả năng chống chịu, đảm bảo ổn định vĩ mô cùng dư địa cho chính sách tiền tệ, tài khóa và an toàn tài chính là nhiệm vụ rất quan trọng cho giai đoạn hậu dịch.

Mong hồi phục nhanh hơn, nhưng không kém phần quan trọng là “chất” tăng trưởng phải tốt hơn, phù hợp hơn với xu thế phát triển phải bền vững, sáng tạo, bao trùm. Hội nhập, liên kết và mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu sẽ có những chuyển dịch đáng kể sau dịch. Những yêu cầu mới về tiêu dùng (xanh, sạch, nhân văn, biểu tương/cá tính) trở nên cấp thiết hơn. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là công cuộc chuyển đổi số, cũng được thúc đẩy hết sức mạnh mẽ. Tất cả những điều này đều liên quan mật thiết đến nỗ lực đẩy mạnh quá trình cải cách cơ cấu của mọi quốc gia.

Đối sách Việt Nam

Việt Nam là một đất nước hội nhập rất sâu rộng, đặc biệt lại với nhiều đối tác đầu tư, thương mại, du lịch chủ chốt (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ,...) đã và đang gồng mình chống dịch và phải hứng chịu những thiệt hại rất nặng nề do đại dịch Covid-19 gây ra. Chính vì vậy, đại dịch Covid-19 đã có những tác động rất nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam. Quí I/2020, kinh tế Việt Nam chỉ tăng trưởng 3,82%, mức thấp nhất trong hơn 10 năm lại đây. Con số này còn chưa phản ánh hết khó khăn sản xuất kinh doanh từ cuối tháng 2 và trong tháng 3. Tác động tiêu cực của dịch covid-19 bao trùm gần như tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế như du lịch, lưu trú, giải trí, vận tải (nhất là hàng không), logistic, phân phối, công nghiệp chế tác (điện tử, dệt may, da giày,...), công nghiệp khai khoáng (nhất là dầu mỏ), nông nghiệp (xuất khẩu nông sản, thủy sản,...).

Lấy một vài ví dụ và con số. Du lịch Việt Nam ước thiệt hại 5-7 tỷ USD trong 6 tháng năm 2020. Hàng không Việt Nam cũng chịu thiệt hại hàng tỷ USD (Hàng không thế giới có tới 2/3 số hãng sẽ phá sản nếu dịch covid-19 kéo dài đến tháng 6/2020). Trong tháng 4-5/2020, đến 50% lao động ngành dệt-may thiếu việc làm. Một khảo sát nhanh cho thấy nếu dịch kéo dài, 35% doanh nghiệp có khả năng cầm cự được trong 3 tháng; 38% trong 6 tháng; 13% trong 1 năm; và 14% trên 1 năm.

Báo cáo cập nhật tình hình Đông Á cuối tháng 3/2020 của World Bank dự báo Việt Nam có thể chỉ tăng trưởng 4,9% năm 2020 theo kịch bản cơ sở (so với mục tiêu 6,8% được Quốc hội thông qua). Theo các kịch bản do Tổng cục Thống kê xây dựng tùy thuộc vào thời điểm hết dịch là quí II hay quí III, tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ trong khoảng 5%-5,3%. Đây vẫn được xem là các mức tăng trưởng tích cực trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, diến biến có thể xấu hơn, và theo World Bank, khi đó tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 sẽ chỉ là 1,5%. Khó khăn và thách thức là rất lớn. Tuy nhiên, Việt Nam được nhìn nhận có khả năng phục hồi mạnh khi hết dịch. Theo World Bank, tăng trưởng của Việt Nam sẽ đạt 7,5% năm 2021 và khoảng 6,5% từ năm 2022 nhờ sức cầu bên ngoài được cải thiện, ngành dịch vụ được củng cố và sản xuất nông nghiệp dần được khôi phục. Cùng với đó, tình hình ngân sách cũng được cải thiện.

Mặc dù chưa hoàn hảo, Việt Nam đã vào cuộc kịp thời, quyết liệt và chủ động, cả trên mặt trận chống đại dịch Covid-19 cũng như đánh giá những hệ lụy kinh tế-xã hội do dịch bệnh gây ra và đề ra, thực thi các giải pháp ứng phó. Bài toán lớn nhất hiện nay với đất nước là cứu người, dập dịch. Chống dịch là ưu tiên số 1 không chỉ là coi trọng sức khỏe, tính mạng người dân, mà nó còn có ý nghĩa hết sức quan trọng về kinh tế. Không khống chế, dập được dịch thì những biện pháp “ngăn cách” biên giới cùng “giãn cách xã hội” vẫn cần thiết và những bất an thị trường vẫn tồn tại.

Tiếp đó là phải giảm thiểu được tác động bất lợi của dịch đối với sản xuất kinh doanh. Ở đây, chủ động hỗ trợ sản xuất kinh doanh cần nhưng vẫn phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế vĩ mô bất ổn không chỉ làm giảm hiệu lực của các biện pháp hỗ trợ kinh tế-xã hội, mà còn làm khó quá trình phục hồi kinh tế giai đoạn hậu dịch. Theo sát tình hình, Việt Nam xây dựng kịch bản khác nhau, kể cả với tình huống xấu nhất để có phương án xử lý thích hợp nhất có thể.

Ngày 4/3/2020, Thủ tương Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Với tinh thần trên, Chính phủ đầu tháng 4 có Nghị quyết với những giải pháp hỗ trợ lớn hơn, mạnh hơn. Trong đó, một điểm quan trọng hàng đầu là giảm gánh nặng doanh nghiệp đang phải hứng chịu để họ có thể cầm cự qua giai đoạn khó khăn, từ đó quay lại và bứt tốc hoạt động.

Trước hết là việc đảm bảo nguồn lực, trang thiết bị y tế cho công tác chống dịch cũng như an toàn sức khỏe cho người lao động làm việc tại công ty, doanh nghiệp. Bên cạnh đó là gói hỗ trợ 61,5 nghìn tỷ đồng cho người lao động mất việc và những nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn thương.

NHNN đã vào cuộc nhanh chóng, hạ nhiều lãi suất điều hành để dần tạo mặt bằng lãi suất cho vay thấp hơn đối với cả nền kinh tế. Cùng với việc đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế, NHNN có thể tiếp tục hạ lãi suất điều hành khi lạm phát giảm tiếp. Quan trọng hơn lúc này, NHNN đã chỉ đạo các các ngân hàng thương mại thực giãn, hoãn, khoanh nợ và cả giảm lãi suất với các khoản đã vay cho doanh nghiệp gặp khó. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại đã triền khai gói tín dụng đến hàng trăm nghìn tỷ đồng với lãi suất ưu đãi cùng giảm nhiều loại phí dịch vụ.

Bộ Tài chính cũng triển khai “gói” đến 180 nghìn tỷ đồng với các giải pháp như gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất, bảo hiểm xã hội và cả miễn, giảm một số thuế, phí cho doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ gia đình và doanh nghiệp trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng năng nề bởi dịch covid-19.

Thúc đẩy giải ngân đầu tư công, vốn đã rất chậm trong năm 2019, phát triển hiệu quả kết cấu hạ tầng, nhất là các dự án trọng điểm, là một giải pháp để “bù đắp” tăng trưởng chậm lại của các lĩnh vực khác. Với tổng số vốn (chưa giải ngân 2019 và kế hoạch 2020) tương đương 30 tỷ USD, đây thực sự là “đầu kéo” có sức lan tỏa khá mạnh đối với nhiều lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ, qua đó tạo đáng kể việc làm, thu nhập cho người lao động. Phát triển hạ tầng cũng là một nền tảng cần thiết cho tăng trưởng trong dài hạn.

Điều quan trọng không kém là khẩn trương hành động trước tình hình diễn biến nhanh phải đi cùng với giải trình, minh bạch thông tin. Không phải ngẫu nhiên, thông tin truyền thông được coi là một giải pháp xuyên suốt. Cùng với đó là yêu cầu thúc đẩy cải cách hành chính, hoàn thiện chính phủ điện tử để thực thi hiệu quả công tác chống dịch và các chính sách hỗ trợ kinh tế - xã hội.

Thảm họa dịch Covid-19 là biến cố không ai mong đợi. Nhưng trong “nguy” bao giờ cũng có “cơ”. “Cơ” ở đây là cơ hội nhìn lại, cầm cự, xoay chuyển tình thế và cải tổ chính mình. Cả trong giai doạn chống dịch và hậu dịch đều có cơ hội để tái cấu trúc nền kinh tế và doanh nghiệp. Trong một nền kinh tế với thị trường nội địa đủ lớn và hội nhập sâu rộng cùng nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTAs) như Việt Nam, thì không thể không có góc nhìn đa dạng về lựa chọn, chuyển hướng thị trường và đối tác cũng như cách thức tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu. Chính chuyển đổi số, vừa là theo xu thế, vừa là cách thức nâng cao chất lượng quản trị, kết nối thích hợp với chiến lược mới. Và trong một thế giới đầy bất định, thì đi kèm là quá trình đánh giá, tăng cường quản trị rủi ro. Sự đồng hành của Nhà nước cùng những sáng tạo của doanh nghiệp đã đưa lại những kết quả đáng khích lệ ngay trong bão dịch.

Dù chưa dư giả, nhưng Việt Nam hiện có đủ nguồn lực để thưc hiện những giải pháp hỗ trợ kinh tế - xã hội thích hợp mà không phá vỡ cân đối vĩ mô. Cách làm khẩn trương, quyết liệt, có nguyên tắc, gắn việc đảm bảo khả năng chống chịu với nỗ lực cải cách cơ cấu, tính đến cả tình hình hiện tại và bước chuyển cần thiết cho nền kinh tế thời hậu dịch. Hy vọng rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ vượt qua được giai đoạn rất khó khăn hiện nay và vững bước phát triển mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26777.00 26885.00 28090.00
GBP 31177.00 31365.00 32350.00
HKD 3185.00 3198.00 3304.00
CHF 27495.00 27605.00 28476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16468.00 16534.00 17043.00
SGD 18463.00 18537.00 19095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18207.00 18280.00 18826.00
NZD 0000000 15007.00 15516.00
KRW 0000000 17.91 19.60
       
       
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ