Đà phục hồi của thị trường bất động sản TP.HCM và vùng phụ cận

Nhàđầutư
Thị trường bất động sản TP.HCM và vùng phụ cận đang ghi nhận những chỉ số tích cực. Trong tháng 11, lượng tiêu thụ mới gấp 3,1 lần so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy nhu cầu nhà ở dịp cuối năm là tương đối lớn.
VŨ PHẠM
08, Tháng 12, 2023 | 06:30

Nhàđầutư
Thị trường bất động sản TP.HCM và vùng phụ cận đang ghi nhận những chỉ số tích cực. Trong tháng 11, lượng tiêu thụ mới gấp 3,1 lần so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy nhu cầu nhà ở dịp cuối năm là tương đối lớn.

Báo cáo thị trường bất động sản (BĐS) tại TP.HCM và vùng phụ cận của DKRA Group cho thấy những con số tích cực của thị trường BĐS. Cụ thể, trong tháng 10, toàn thị trường có 8 dự án mở bán (1 dự án mới và 7 dự án ở giai đoạn tiếp theo), cung cấp 960 căn, giảm 67% so với cùng kỳ 2022. Lượng tiêu thụ mới đạt 549 căn, giảm 55% so với cùng kỳ.

Nguồn cung mới trong tháng 10 tăng 56% so với tháng 9 nhưng ghi nhận sụt giảm so với cùng kỳ. Bình Dương dẫn đầu về nguồn cung mới, chiếm hơn 2/3 tổng số căn hộ mở bán toàn thị trường trong tháng với 665 căn. Phân khúc căn hộ hạng B chiếm 55% nguồn cung và 72% lượng tiêu thụ mới toàn thị trường, các dự án tập trung tại khu vực TP. Dĩ An và TP. Thủ Dầu Một thuộc Bình Dương.

Tại TP.HCM, nguồn cung mới chủ yếu thuộc phân khúc căn hộ hạng A tại khu Đông, thị trường không ghi nhận nguồn cung căn hộ hạng C mở bán. Các địa phương khác như Long An, Đồng Nai, Tây Ninh không có nguồn cung phân khúc căn hộ.

Empty

Nhu cầu nhà ở dịp cuối năm vẫn rất lớn. Ảnh: DKRA

Về giá bán căn hộ sơ cấp, TP.HCM vẫn dẫn đầu, có mức giá khó tiếp cận hơn so với các địa phương vùng ven khi giá thấp nhất là 63 triệu đồng/m2, cao nhất lên tới 96,6 triệu đồng/m2. Tiếp theo là Bà Rịa - Vũng Tàu, căn hộ tại địa phương này có mức giá thấp là 32 triệu đồng/m2, cao nhất là 51,3 triệu đồng/m2. Bình Dương có giá căn hộ dễ chịu hơn cả khi thấp nhất chỉ 16 triệu đồng/m2, cao nhất là 51,4 triệu đồng/m2.

Sang tháng 11, toàn thị trường có 2 dự án mở bán (1 dự án mới và 1 dự án ở giai đoạn tiếp theo) cung cấp 740 căn, tăng 27% so với cùng kỳ. Lượng tiêu thụ cũng tăng đáng kể đạt 681 căn, gấp 3,1 lần so với cùng kỳ.

Nguồn cung mới giảm 23% so với tháng trước nhưng đã tăng so với cùng kỳ. Tuy nhiên, nguồn cung mới tập trung tại TP.HCM, các tỉnh vùng ven không có nguồn cung mới. Tại TP.HCM nguồn cung mới chủ đạo là phân khúc căn hộ hạng B tại khu Tây với mức giá dao động từ 52-57 triệu đồng/m2 (VAT).

DKRA đánh giá, giai đoạn này, các chính sách chiết khấu thanh toán nhanh, kéo giãn kỳ hạn thanh toán, quà tặng mở bán… tiếp tục được phần lớn chủ đầu tư áp dụng nhằm kích cầu thị trường. Mặt bằng giá bán sơ cấp lẫn thứ cấp không có nhiều biến động, thanh khoản thị trường tập trung ở những dự án có pháp lý hoàn thiện, tiến độ xây dựng nhanh chóng tạo niềm tin nơi người mua.

Ông Võ Hồng Thắng, Giám đốc Mảng dịch vụ Tư vấn và Phát triển dự án của DKRA Group nhìn nhận, thời điểm hiện tại cho đến nửa đầu năm 2024 có thể xem như bước khởi đầu của một chu kỳ phục hồi và tăng trưởng tiếp theo của thị trường BĐS.

"Khi chính sách điều hành được thẩm thấu, tỷ lệ giải ngân đầu tư công tăng, tình hình lãi suất cho vay/lãi suất tiền gửi duy trì xu hướng giảm, niềm tin vào thị trường hồi phục trở lại... bức tranh thị trường BĐS sẽ trở nên tươi sáng hơn", ông nói.

Vị chuyên gia này cho rằng, sắp tới, nguồn cung mới sẽ tăng, tập trung ở phân khúc nhà ở vừa túi tiền, nhà ở xã hội phục vụ nhu cầu ở thực. Bên cạnh đó, thị trường sẽ đa dạng hơn về phân khúc giá, phân khúc sản phẩm, mang đến nhiều sự lựa chọn cho người mua.

"BĐS nhà ở tại các đô thị, thành phố lớn sẽ là phân khúc dẫn dắt đà phục hồi bởi nhu cầu thực ở nhóm sản phẩm này vẫn luôn cao", ông nhận định.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ