Áp lực mất giá đè nặng lên các đồng tiền châu Á 

Nhàđầutư
Nhiều đồng tiền của châu Á đang chịu áp lực mất giá thêm do giá năng lượng tăng vọt, quan ngại kinh tế Trung Quốc tiếp tục suy giảm và lạm phát dâng cao trên toàn cầu.
KIM NGÂN
25, Tháng 10, 2021 | 17:16

Nhàđầutư
Nhiều đồng tiền của châu Á đang chịu áp lực mất giá thêm do giá năng lượng tăng vọt, quan ngại kinh tế Trung Quốc tiếp tục suy giảm và lạm phát dâng cao trên toàn cầu.

Screen Shot 2021-10-25 at 5.20.16 PM

Nhiều đồng tiền châu Á mất giá so với đồng đô la Mỹ trong những tuần qua. Ảnh: Reuters and Ken Kobayashi. Ảnh: Internet

Theo Nikkei Asia, các nhà đầu tư đã giảm bớt mức độ phơi nhiễm rủi ro (exposure) đối với đồng won của Hàn Quốc, đồng baht Thái Lan, đồng yên Nhật Bản và các đồng tiền châu Á khác khi đồng đô la Mỹ mạnh lên do dự báo Cục Dự trữ Liên bang Mỹ rất có khả năng sẽ tăng lãi suất trong năm tới khi đại dịch COVID-19 đã giảm nhiệt.

Tuần trước, lợi tức trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng lên mức cao nhất kể từ giữa tháng 5. Một số nhà đầu tư dự báo con số sẽ tiếp tục tăng trong năm nay, đặc biệt nếu Fed tăng cường thắt chặt tiền tệ trong bối cảnh lạm phát tăng cao.

Dự báo này khiến các đồng tiền châu Á rung lắc. Đồng yên Nhật tháng trước mất giá khoảng 3%, có thời điểm chạm mức yếu nhất trong gần 4 năm - 114,69 yên/USD. Đồng tiền của Hàn Quốc và Thái Lan rung lắc trong vài tuần qua và vẫn thấp hơn nhiều so với đầu năm. Đồng won và đồng baht mất giá tương ứng 8% và hơn 10% từ đầu năm đến nay. Đây là hai đồng tiền mất giá nhiều nhất châu Á, Nikkei Asia đưa tin.

Ken Cheung, giám đốc chiến lược ngoại hối châu Á tại Ngân hàng Mizuho ở Hồng Kông, cho biết triển vọng Mỹ có một đợt tăng lãi suất sớm hơn dự kiến trong bối cảnh “áp lực lạm phát toàn cầu tăng là mối quan ngại chính xung quanh các đồng tiền châu Á”. 

Điều này thúc đẩy một số quốc gia bắt đầu tiến tới bình thường hóa chính sách tiền tệ để kiểm soát áp lực lạm phát. Trong một động thái gây bất ngờ, tháng này, ngân hàng trung ương Singapore thắt chặt chính sách tiền tệ lần đầu tiên trong ba năm, giống các nước khác trong khu vực như Hàn Quốc hay New Zealand.

Chỉ số giá tiêu dùng tăng đột biến ở một số quốc gia khi hoạt động kinh tế tăng. Trong khi một số nhà hoạch định chính sách cố gắng làm dịu bớt quan ngại của các nhà đầu tư, giá than, khí đốt tự nhiên và dầu thô tăng giá, “đổ thêm dầu vào lửa”.

Tuy nhiên, tác động của việc tăng giá năng lượng khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Trong khi các nhà xuất khẩu ròng nhiên liệu được hưởng lợi, các nhà nhập khẩu có thể phải chịu giá cao hơn trong bối cảnh ngân sách của người tiêu dùng bị thắt chặt và áp lực lạm phát tăng.  

Các nền kinh tế nhập khẩu năng lượng như Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ chứng kiến đồng tiền của họ suy yếu trong bối cảnh đó. Tháng 10, đồng won giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một năm khiến ngân hàng trung ương Hàn Quốc phải cân nhắc can thiệp.

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, đồng lira tháng trước mất giá khoảng 10% so với đồng đô la Mỹ, chạm mức đáy lịch sử. Đồng tiền này chịu thêm áp lực khi Tổng thống Recep Tayyip Erdogan đặt ngân hàng trung ương dưới sự kiểm soát của ông - sa thải các nhà hoạch định chính sách “diều hâu” (có quan điểm ủng hộ thắt chặt chính sách tiền tệ) và thúc ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất.

Hôm thứ Năm, ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ đã cắt giảm lãi suất 200 điểm cơ bản, nhiều hơn dự báo của thị trường, ngay cả khi lạm phát đã ở mức cao.

Đồng rupee của Ấn Độ đã có phục hồi trong vài tuần qua. Nhưng trong một báo cáo, David Rees, nhà kinh tế cấp cao về thị trường mới nổi tại công ty quản lý tài sản Schroders, viết: “Mặc dù Ấn Độ bước vào giai đoạn lạm phát năng lượng cao hơn trong bối cảnh kinh tế có cải thiện, thông tin dự trữ than đã cạn kiệt cho thấy nhập khẩu sẽ phải tăng, khiến tài khoản vãng lai chuyển sang thâm hụt và gây áp lực lên đồng rupee”.

Nga, một nước xuất khẩu nhiên liệu ròng, nổi lên là người chiến thắng trong cuộc khủng hoảng năng lượng. Đồng rúp, một đồng tiền chính của thế giới, tăng giá khoảng 3% so với tháng trước.

Báo cáo của RBC Capital Markets chỉ ra rằng Malaysia có thể hưởng lợi từ việc giá dầu tăng “vì là một trong số ít các nhà xuất khẩu ròng dầu mỏ ở châu Á-Thái Bình Dương”, và điều này có thể khiến đồng ringgit tăng giá.

Một mối quan ngại khác treo lơ lửng trên đầu các đồng tiền châu Á là sự bấp bênh trong tăng trưởng của Trung Quốc. Tăng trưởng GDP của nước này chậm lại còn 4,9% trong quý 3, có nguyên nhân từ thị trường bất động sản nguội lạnh và việc cắt điện ở các trung tâm công nghiệp. Không ít người lo ngại nếu nhà phát triển bất động sản Evergrande Group vỡ nợ, tác động từ quả bom này sẽ lan truyền tới nền kinh tế toàn cầu.  

IMF gần đây giảm dự báo kinh tế toàn cầu năm 2021, lưu ý rằng lạm phát là rủi ro có thể làm chậm quá trình phục hồi từ đại dịch.

Charlie Lay, chiến lược gia ngoại hối tại ngân hàng Commerzbank ở Singapore, cho rằng đồng won và đồng baht có thể còn dư địa để tăng giá vào năm tới. “Việc Thái Lan mở cửa trở lại và xuất khẩu hàng điện tử của Hàn Quốc là những yếu tố tích cực hỗ trợ cho đồng tiền của các nước này”.

Ông Cheung của Mizuho cho biết tỷ lệ tiêm chủng của các quốc gia là dữ liệu quan trọng mà các nhà giao dịch tiền tệ theo dõi. “Tỷ lệ tiêm chủng vẫn còn thấp ở Đông Nam Á, vì vậy ngay cả khi có những động thái như mở lại biên giới, sự bấp bênh trong phục hồi và triển vọng tăng trưởng có thể khiến các đồng tiền tiếp tục yếu”.

Motoki Maruyama, trưởng bộ phận kinh doanh ngoại hối và tỷ giá tại Châu Mỹ của Tập đoàn tài chính Mitsubishi UFJ, cho biết: “Nhìn chung, chúng tôi tin rằng các đồng tiền châu Á có thể vẫn dễ bị tổn thương trong tương lai gần”.

“Trong bối cảnh giá năng lượng tăng và các hoạt động kinh doanh phục hồi từ đại dịch, các quốc gia có số dư tài khoản vãng lai ít thuận lợi hơn sẽ gặp bất lợi trong điều hành kinh tế vĩ mô”.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ