2 tháng đầu năm, địa ốc phía Nam không có dự án mới mở bán

Nhàđầutư
2 tháng đầu năm, thị trường bất động sản TP.HCM và vùng phụ cận có 6 dự án mở bán. Nhưng, cả 6 dự án này đều thuộc giai đoạn mở bán tiếp theo, cung cấp cho thị trường 440 căn, giảm 34% so với cùng kỳ, lượng tiêu thụ mới đạt 247 căn.
VŨ PHẠM
11, Tháng 03, 2024 | 11:24

Nhàđầutư
2 tháng đầu năm, thị trường bất động sản TP.HCM và vùng phụ cận có 6 dự án mở bán. Nhưng, cả 6 dự án này đều thuộc giai đoạn mở bán tiếp theo, cung cấp cho thị trường 440 căn, giảm 34% so với cùng kỳ, lượng tiêu thụ mới đạt 247 căn.

Báo cáo thị trường bất động sản (BĐS) 2 tháng đầu năm ở TP.HCM và vùng phụ cận của DKRA Group cho thấy, ở phân khúc căn hộ có 6 dự án mở bán. Tuy nhiên cả 6 dự án này đều thuộc giai đoạn mở bán tiếp theo. Nguồn cung mới có 440 căn, giảm 34% so với cùng kỳ, lượng tiêu thụ mới đạt 247 căn, đạt tỷ lệ 56%. Trong đó, tháng 1 có 384 căn, tiêu thụ 228 căn; tháng 2 chỉ có 56 căn, tiêu thụ được 19 căn.

Nguồn cung và lượng tiêu thụ mới giảm do tập trung giai đoạn trước và trong dịp Tết Nguyên đán, củ yếu tại TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong đó, TP.HCM có 303 căn, chiếm 69%; Bình Dương chiếm 20%, Bà Rịa - Vũng Tàu chiếm 11% tổng nguồn cung.

DKRA Group cho biết, phân khúc căn hộ hạng B chiếm 76% nguồn cung và 93% lượng tiêu thụ mới toàn thị trường, tập trung phần lớn tại khu Tây TP.HCM.

du-an-bat-dong-san

2 tháng đầu năm ở TP.HCM và vùng phụ cận có 6 dự án mở bán, tất cả đều ở giai đoạn tiếp theo. Ảnh: VP

Về giá bán sơ cấp, tại TP.HCM ghi nhận mức giá cao nhất lên tới 82 triệu đồng/m2, thấp nhất là 52,5 triệu đồng/m2. Bình Dương mức giá cao nhất là 48,7 triệu đồng/m2, thấp nhất 35,5 triệu đồng/m2. Bà Rịa - Vũng Tàu có mức giá cao nhất là 52,8 triệu đồng/m2, thấp nhất ở mức 48,3 triệu đồng/m2.

"Các chính sách chiết khấu thanh toán nhanh, kéo giãn kỳ hạn thanh toán, quà tặng mở bán… tiếp tục được phần lớn chủ đầu tư áp dụng nhằm kích cầu thị trường. Mặt bằng giá bán sơ cấp không có nhiều biến động, song ghi nhận cục bộ mức tăng 3-6% ở một số dự án tại TP.HCM có pháp lý hoàn chỉnh, tiến độ xây dựng, bàn giao nhanh chóng", DKRA Group cho hay.

Ông Võ Hồng Thắng, Giám đốc Mảng dịch vụ Tư vấn & Phát triển dự án của DKRA Group nhận định, năm nay thị trường BĐS tiếp tục khan hiếm nguồn cung mới bởi vấn đề pháp lý trong ngắn hạn chưa được giải quyết triệt để. Thanh khoản là vấn đề lớn cần chủ đầu tư giải quyết trong bối cảnh tâm lý e ngại, thiếu niềm tin của nhà đầu tư. Ưu tiên hàng đầu của các chủ đầu tư trong năm nay vẫn là dòng tiền.

Tương tự, báo cáo của Batdongsan.com.vn cũng chỉ ra những chỉ số của thị trường có sự giảm sút do dịp Tết Nguyên đán kéo dài. Cụ thể, tổng lượng tin đăng bán nhà đất TP.HCM tháng 2 giảm 30% so với tháng 1. Trong đó, lượng tin rao bán nhà riêng TP.HCM giảm 38%, đất nền giảm 33% và căn hộ chung cư giảm 29%.

Về nhu cầu mua, nhà mặt phố là phân khúc có lượng tìm mua giảm sâu nhất thị trường BĐS TP.HCM trong tháng 2, với mức giảm ghi nhận lên đến 33%. Các loại hình khác là đất nền giảm 20%, biệt thự giảm 20% và nhà riêng lẻ giảm 19%. Căn hộ là dòng sản phẩm ít chịu ảnh hưởng nhất tháng qua, nhu cầu tìm mua chỉ giảm nhẹ tầm 6% so với tháng trước.

Trong khi đó, báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 2 và 2 tháng đầu năm 2024 được Cục Thống kê TP.HCM nêu rõ, tình hình kinh doanh của thị trường BĐS TP.HCM có những tín hiệu phục hồi. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đã chung tay phối hợp thực hiện nhiều chính sách thanh toán, ưu đãi cho khách hàng. Vì vậy, doanh thu kinh doanh BĐS 2 tháng đầu năm 2024 ước đạt 42.300 tỷ đồng, tăng 20,1% so với cùng kỳ và chiếm gần 60% trong nhóm doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ