VN-Index có thể đạt mức 1.000 – 1.050 điểm vào cuối 2019

Nhàđầutư
Chuyên gia kinh tế, TS Đinh Thế Hiển đã có những chia sẻ về thị trường chứng khoán Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2019 và triển vọng VN-Index trong những tháng cuối năm.
BẢO LINH
08, Tháng 09, 2019 | 07:30

Nhàđầutư
Chuyên gia kinh tế, TS Đinh Thế Hiển đã có những chia sẻ về thị trường chứng khoán Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2019 và triển vọng VN-Index trong những tháng cuối năm.

nhadautu - TTCK tang truong tot

 

Trong 8 tháng đầu năm 2019, VN-Index vẫn chưa thể vượt qua mức 1.000 điểm như kỳ vọng của nhà đầu tư. Tuy nhiên, ông Đinh Thế Hiển nhận định, mức 974 điểm cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam tăng trưởng tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Do vậy P/E của Sàn HOSE đã ở mức 16,3 là mức khá cao so với P/E các thị trường các nước khu vực trong cái năm gần đây.

nhadautu - VN-Index giu gia tot

(nguồn: TS Đinh Thế Hiển)

Trong quý III/2019, VN-Index đã có sự phục hồi, nhưng chưa vượt trở lại mốc 1.000 điểm và thanh khoản đang ở mức trung bình thấp.

Sau khi vượt mức tâm lý 1.000 vào tháng 3 năm 2019, thị trường đã có giai đoạn suy giảm khá mạnh vào quý II/2019. Tuy nhiên, thị trường đã dần hồi phục trong quý III, tính đến ngày 6/9/2019, VN-Index đạt 974 điểm, tăng 11,1% so với đầu năm. Thị trường tăng trưởng khá tốt nhờ sự dẫn dắt chủ yếu của 5 cổ phiếu lớn VIC, VHM, VRE, GAS và VCB.

Ông Hiển lưu ý rằng, thanh khoản thị trường đạt mức 173 triệu USD/ngày, giảm 29% so với mức trung bình năm 2018; cho thấy thị trường vẫn chưa có động lực để tăng mạnh trong giai đoạn hiện nay.

nhadautu - TTCK trong quy II va quy III

 

Xét về các nhóm ngành, nhóm bất động sản, xây dựng và thương mại dịch vụ tăng mạnh, còn nhóm Tài chính ngân hàng có kết quả thấp nhất.

Ông Hiển đã đưa ra thống kê, trong danh mục 35 công ty tuyển chọn theo tiêu chuẩn Quỹ đầu tư cổ phiếu của các nhóm ngày. Thống kê kết quả tính đến ngày 6/9 so với đầu năm có các kết quả như sau :

- Đầu tư danh mục quy mô lớn khó thắng thị trường. Mức tăng trưởng danh mục bình quân là 7%, thấp hơn VN-Index. Đây cũng là tình hình chung của việc đầu tư danh mục theo tiêu chuẩn Quỹ đầu tư cổ phiếu. Hầu như không có Quỹ đầu tư cổ phiếu nào có kết quả thắng VN-Index (11,1%); điều này là do tính thanh khoản của thị trường khá thấp, các Quỹ đầu tư với quy mô lớn sẽ khó thực hiện cơ cấu danh mục nhanh chóng theo diễn tiến thị trường để chốt lời hoặc mua được những cổ phiếu tốt nếu giá trị giao dịch quá thấp. 

- Ngành bất động sản, xây dựng đang có giá khá cao, còn ngành tài chính ngân hàng đang ở mức thấp. Kết quả của 35 cổ phiếu này, 2 ngành bất động sản, xây dựng và ngành thương mại dịch vụ có mức tăng cao hơn VN-Index; còn ngành tài chính ngân hàng có kết quả bị âm. Như vậy giá cổ phiếu hiện tại của ngành bất động sản, xây dựng đã khá cao so với thị trường và ngành tài chính ngân hàng đang có giá khá thấp trừ VCB.

- Có sự chênh lệch lớn giữa các cổ phiếu, có thể tạo cơ hội thu lợi cao kèm theo rủi ro cũng lớn cho nhà đầu tư cá nhân. Trong 35 công ty này, công ty có mức tăng mạnh nhất là 49,5%; và công ty có kết quả thấp nhất là - 31,9%. Điều này cho thấy kết quả của các cổ phiếu có sự phân hóa mạnh, các nhà đầu tư cá nhân chỉ đầu tư một vài công ty sẽ có kết quả chênh lệch lớn so với bình quân thị trường.

Nguồn: Danh mục 35 cổ phiếu do VFA group chọn theo tiêu chuẩn danh mục quỹ đầu tư

nhadautu - ve cac nhom nganh

(Nguồn: TS Đinh Thế Hiển)

Tựu chung lại, ông Hiển kết luận, Việt Nam là nước được hưởng lợi từ chiến tranh thương mại Trung-Mỹ. Nhận định này được thể hiện tương đối rõ ràng khi thị trường chứng khoán Việt Nam có mức tăng trưởng vượt trội 11,1% so với TTCK Châu Á, tính đến ngày 6/9/2019.

Mặc dù kinh tế thế giới vẫn trong giai đoạn rủi ro từ thương chiến Trung - Mỹ, khiến dòng vốn đầu tư sẽ khó đổ vào thị trường chứng khoán các nước có rủi ro cao như Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn có thể tăng nhẹ trong các tháng cuối năm nhờ vào các yếu tố cơ bản của kinh tế Việt Nam. Dự kiến VN-Index có thể đạt mức 1000 – 1050 điểm vào cuối năm 2019.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26797.00 26905.00 28111.00
GBP 31196.00 31384.00 32369.00
HKD 3185.00 3198.00 3303.00
CHF 27497.00 27607.00 28478.00
JPY 161.56 162.21 169.75
AUD 16496.00 16562.00 17072.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 673.00 676.00 704.00
CAD 18212.00 18285.00 18832.00
NZD   15003.00 15512.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3598.00 3733.00
SEK   2304.00 2394.00
NOK   2295.00 2386.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ