Thị trường bất động sản đang có khoảng 1.200 dự án 'đắp chiếu'

Nhàđầutư
Trên thị trường bất động sản hiện nay có khoảng 1.200 dự án đang bị đắp chiếu do vướng mắc pháp lý. Tính đến cuối năm nay, 500 dự án đã được xem xét, hỗ trợ giải quyết.
VŨ PHẠM
22, Tháng 12, 2023 | 15:45

Nhàđầutư
Trên thị trường bất động sản hiện nay có khoảng 1.200 dự án đang bị đắp chiếu do vướng mắc pháp lý. Tính đến cuối năm nay, 500 dự án đã được xem xét, hỗ trợ giải quyết.

Đây là thông tin ông Nguyễn Văn Đính, Chủ tịch Hội môi giới bất động sản (BĐS) Việt Nam (VARS) chia sẻ trong một hội thảo mới đây.

Chủ tịch VARS cho biết, nguồn cung trên thị trường BĐS đang rất nghèo nàn và không có chất lượng. Phần lớn nguồn cung đang tồn tại trên thị trường không phù hợp với đại bộ phận dân chúng. Tuy nhiên, đây không phải là sự thiếu hụt nghiêm trọng mà là sự thiếu hụt tạm thời. Các dự dự án nằm chờ do bị tắc nghẽn về pháp lý. Thậm chí, có dự án hoàn thành rồi, có thể đưa vào thị trường nhưng vẫn vướng mắc thủ tục

"Thời gian tới, dưới sự tác động của các cơ chế, chính sách thúc đẩy thị trường BĐS dần có độ ngấm, sẽ tác động tích cực hơn tới thị trường. Niềm tin khách hàng, nhà đầu tư ngày càng được củng cố. Từ đó sẽ có cơ hội cải thiện nguồn cung từ các dự án đã được khơi thông vướng mắc", ông Đính nói và cho rằng, các dự án Luật Nhà ở, Kinh doanh BĐS được thông qua, việc điều chỉnh một số nội dung theo hướng tích cực cũng sẽ góp phần tạo thêm động lực cho thị trường.

Empty

Một dự án BĐS ở TP.HCM nằm bất động gần 5 năm dù đã ra mắt thị trường từ cuối năm 2019. Ảnh: Vũ Phạm

Trong khi đó, tại TP.HCM, theo Hiệp hội BĐS TP.HCM (HoREA), 3 năm qua số dự án BĐS được chấp thuận thủ tục đầu tư tại thành phố rất hạn chế. Trong đó, năm 2021 có 7 dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư, năm 2022 có 2 dự án và nửa đầu năm nay có thêm 2 dự án nữa được thuận chủ trương. Do số dự án được chấp thuận đầu tư hạn chế kéo theo số doanh nghiệp có sản phẩm nhà ở đưa ra thị trường trong 3 năm qua không nhiều. Năm 2021 chỉ có 20 doanh nghiệp, năm 2022 chỉ có 25 doanh nghiệp. Riêng 9 tháng năm 2023 chỉ có 13 doanh nghiệp có sản phẩm đưa ra thị trường với tổng cộng 15.020 căn hộ, nhưng phần lớn là phân khúc cao cấp.

Nhìn chung, số dự án và sản phẩm nhà ở đưa ra thị trường từ năm 2020 đến nay đã có sự sụt giảm rất lớn so với năm 2017 là năm phát triển cao nhất trong 10 năm gần đây có đến 92 dự án với 42.991 căn hộ được đưa ra thị trường.

Trong báo cáo mới nhất của UBND TP.HCM cho thấy, sau khi kiện toàn Tổ công tác tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án đầu tư trên địa bàn TP.HCM vào tháng 5/2023 đã có 17 dự án BĐS đã được gỡ vướng. Trong đó, 3 dự án được giải quyết theo chỉ đạo của Tổ công tác gồm dự án Khu phức hợp Sóng Việt của Công ty Quốc Lộc Phát, dự án xây dựng khu nhà ở xã hội của Công ty VTHouse và Công ty Tâm Giao; dự án của Công ty TNHH Nước giải khát Suntory Pepsico Việt Nam.

Ngoài ra, có 12 dự án đang được các sở, ngành rà soát, thực hiện theo chỉ đạo của UBND TP.HCM như: Dự án tại số 3A - 3B Tôn Đức Thắng; dự án Căn hộ Lê Thành, Tân Tạo 2; dự án Khu nhà ở thấp tầng Tâm Đại Thành; Tổ hợp cao ốc thương mại, dịch vụ, văn phòng và căn hộ trên đường 3/2; dự án tại số 100 đường Cô Giang…

Thị trường BĐS đã có những tín hiệu tích cực hơn là nhờ vào sự chung tay của Chính phủ, các bộ, ngành và các doanh nghiệp BĐS. Tuy nhiên, từ cơ chế, chính sách đến hiệu quả thực thi vẫn là một vấn đề nan giải.

Việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án BĐS còn nhiều hạn chế do các khó khăn, vướng mắc đã tồn tại từ lâu; sức khỏe của các doanh nghiệp BĐS đã suy yếu; tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm dẫn đến đùn đẩy, né tránh, giải quyết chậm, không dám đề xuất, không dám quyết định của một số cán bộ tại một số địa phương.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24675.00 24695.00 25015.00
EUR 26141.00 26246.00 27411.00
GBP 30532.00 30716.00 31664.00
HKD 3113.00 3126.00 3228.00
CHF 26871.00 26979.00 27815.00
JPY 159.92 160.56 168.00
AUD 15832.00 15896.00 16382.00
SGD 18029.00 18101.00 18636.00
THB 660.00 663.00 690.00
CAD 17973.00 18045.00 18577.00
NZD   14540.00 15029.00
KRW   17.60 19.20
DKK   3510.00 3640.00
SEK   2258.00 2345.00
NOK   2225.00 2313.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ