Tăng trưởng xanh: Hiệu lệnh của thời cuộc

Việt Nam dường như đã hội tụ đầy đủ các điều kiện quan trọng để đi cùng và đi nhanh với cộng đồng thế giới. Quyết liệt đi theo con đường tăng trưởng xanh (TTX) để đổi mới mô hình tăng trưởng, đạt được các mục tiêu thịnh vượng về kinh tế, công bằng về xã hội và bền vững về môi trường.
PGS. TS. BÙI QUANG TUẤN - VIỆN KINH TẾ VIỆT NAM
09, Tháng 02, 2024 | 16:32

Việt Nam dường như đã hội tụ đầy đủ các điều kiện quan trọng để đi cùng và đi nhanh với cộng đồng thế giới. Quyết liệt đi theo con đường tăng trưởng xanh (TTX) để đổi mới mô hình tăng trưởng, đạt được các mục tiêu thịnh vượng về kinh tế, công bằng về xã hội và bền vững về môi trường.

Thế giới ngày nay tiếp tục là thế giới của toàn cầu hóa. Quá trình này được thúc đẩy bởi những tiến bộ vượt bậc của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cuộc cách mạng này tạo ra nhiều tư liệu sản xuất mới, thay thế không chỉ lao động chân tay mà cả lao động trí óc của con người, làm thay đổi cách tổ chức và quản lý nền sản xuất vật chất và toàn bộ đời sống xã hội.

Nhiều loại hình kinh tế mới xuất hiện như kinh tế tri thức, kinh tế số - nơi tri thức và thông tin là nguồn tài nguyên vô hạn cho tăng trưởng kinh tế thay vì hữu hạn các nguồn tài nguyên thiên nhiên truyền thống. Bên cạnh chuyển đổi số, không thể không nhắc đến một sự chuyển đổi khác, cũng mạnh mẽ và đang trở thành xu hướng khách quan, đó là quá trình chuyển đổi xanh để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

Xu hướng không thể đảo ngược

Trong quá trình chuyển đổi xanh, thực hiện tăng trưởng xanh (TTX) có một vai trò quan trọng và có nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực, cả kinh tế, văn hóa -xã hội, môi trường. TTX giúp nhiều quốc gia thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng hiện đại và giải quyết được các vấn đề xã hội, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH).

Có nhiều khái niệm về TTX, tuy nhiên về bản chất, TTX là mô hình tăng trưởng theo hướng chất lượng, hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh gắn với giảm cường độ phát thải khí nhà kính, xanh hoá sản xuất và tiêu dùng, thực hiện kinh tế tuần hoàn, sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường trên nền tảng của khoa học công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo (ĐMST).

TTX là đối lập của tăng trưởng nâu. TTX được coi là phương thức quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đã đề ra trong Chương trình nghị sự 2030 (SDG 2030) mà các quốc gia thuộc Liên hợp quốc trong đó có Việt Nam theo đuổi.

TTX trở nên là xu hướng không thể đảo ngược vì thế giới đang đối mặt với những thách thức rất lớn là:

(i) Cạn kiệt tài nguyên khoáng sản: Các nguồn tài nguyên khoáng sản như dầu mỏ, khí đốt, quặng kim loại, than… đều đang giảm dần do khai thác quá mức và không có nguồn thay thế; Giá cả của nhiều loại tài nguyên khoáng sản đều tăng lên do nguồn cung giảm đi; Nguồn cung giảm dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt ở qui mô các quốc gia và khu vực để chiếm lĩnh các nguồn tài nguyên còn lại, dẫn đến xung đột và tranh chấp về lãnh thổ.

(ii) Môi trường bị ô nhiễm và xuống cấp nghiêm trọng: Việc khai thác tài nguyên khoáng sản không bền vững và sản xuất kinh doanh theo mô hình tăng trưởng nâu với việc sử dụng tài nguyên khoáng sản ngày càng tăng vừa tạo áp lực lớn lên nguồn cung hiện tại vừa có tác động tiêu cực nghiêm trọng đến môi trường, bao gồm ô nhiễm nước, đất, không khí và mất rừng.

(iii) Biến đổi khí hậu: mô hình tăng trưởng nâu vốn dựa vào tài nguyên thiên nhiên đã làm lượng khí nhà kính tăng lên và do đó làm cho nhiệt độ toàn cầu nóng lên do hiệu ứng khí nhà kính, làm đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu.

191022Hydrogenxanh(1)

Ảnh minh hoạ. (Ảnh EVN).

Theo nghiên cứu của NASA, nhiệt độ Trái đất kể từ cuộc cách mạng công nghiệp đã có sự tăng lên rõ rệt. Nhiệt độ thế giới hiện cao hơn mức thời kỳ tiền công nghiệp khoảng 1 độ C.

Hầu hết sự nóng lên xảy ra trong 40 năm qua, với bảy năm gần đây nhất là nóng nhất. Năm 2016, 2020 là hai năm có nhiệt độ trung bình cao nhất được ghi nhận.

Các dải băng Greenland và Nam Cực đã giảm khối lượng. Greenland mất trung bình 279 tỷ tấn băng mỗi năm từ năm 1993 đến 2019, trong khi Nam Cực mất khoảng 148 tỷ tấn băng mỗi năm. Các sông băng đang rút lui ở hầu hết mọi nơi trên thế giới.

Mực nước biển toàn cầu đã tăng khoảng 20 cm trong thế kỷ trước. Tốc độ tăng trong hai thập kỷ qua là gần gấp đôi so với thế kỷ trước và tiếp tục tăng nhẹ mỗi năm.

Kể từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp, độ axit của nước biển bề mặt đã tăng khoảng 30%.

Sự gia tăng này là do con người thải ra nhiều CO2 hơn vào khí quyển và do đó được hấp thụ nhiều hơn vào đại dương. Đại dương đã hấp thụ từ 20% đến 30% tổng lượng khí thải CO2 do con người tạo ra trong những thập kỷ gần đây (7,2 đến 10,8 tỷ tấn mỗi năm).

Các nhà khoa học đã dự báo rằng nếu thế giới vượt qua mức tăng nhiệt 2 độ C trên mức thời kỳ tiền công nghiệp, hậu quả sẽ là thảm khốc đối với nhân loại.

Biến đổi khí hậu đã bắt thế giới phải hành động. Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021 (COP 26) đã dẫn tới Hiệp ước Khí hậu Glasgow, được đồng thuận bởi đại diện của 197 bên tham dự.

Hiệp ước này nhằm ngăn chặn nguy cơ gia tăng của biến đổi khí hậu. Các bên tham gia tái khẳng định duy trì mục tiêu hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 1,5 độ C vào cuối thế kỷ theo Hiệp định Paris.

Hiệp ước Khí hậu Glasgow trở thành thỏa thuận khí hậu đầu tiên có kế hoạch rõ ràng để giảm dần lượng than tiêu thụ. Hơn 140 quốc gia (chiếm 90% GDP toàn cầu) cam kết đạt mức phát thải ròng bằng "0".

Hơn 100 quốc gia đã cam kết đẩy lùi nạn phá rừng vào năm 2030. Hơn 40 quốc gia cam kết loại bỏ than đá.

Việt Nam đã vào cuộc

Các thách thức của thế giới cũng là thách thức đối với Việt Nam. Vì thế, Việt Nam đã nhận thức được yêu cầu phải chuyển đổi xanh.

Từ năm 2012 Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 (Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/09/2012).

Tiếp đó, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 đã được phê duyệt qua Quyết định số 1658/QĐ- TTg ngày 01/10/2021.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã thông qua Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 tại Quyết định số 882/QĐ-TTg ngày 22/7/2022.

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 là góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.

Bên cạnh các chính sách về TTX, Việt Nam cũng có các chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) – là một lĩnh vực quan trọng có nhiều nội dung giao thoa và đồng hướng với TTX.

Điều 142 của Luật Môi trường đã qui định rõ "Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường".

Mô hình KTTH hỗ trợ xây dựng lối sống xanh, khuyến khích phân loại rác thải và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Do vậy thực hiện KTTH cũng là thực hiện TTX.

Chính phủ đã phê duyệt các văn bản có liên quan đến phát triển KTTH như Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Quyết định 687/QĐ-TTg về Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) ở Việt Nam.

Mục tiêu của Đề án này là góp phần cụ thể hóa mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP, hướng tới mục tiêu phát thải ròng về "0" vào năm 2050.

Đề án cũng đặt mục tiêu tăng năng lực tái chế rác thải hữu cơ ở đô thị và nông thôn, nâng cao nhận thức của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và người dân trong sản xuất, tiêu thụ, thải bỏ chất thải nhựa, túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt.

Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì soạn thảo "Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030" để thúc đẩy quyết liệt hơn KTTH. Kế hoạch này đang ở giai đoạn lấy ý kiến để chuẩn bị phê duyệt.

Ngoài ra Chính phủ cũng đã phê duyệt Quy hoạch điện VIII và một số văn bản liên quan đến thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

Đây cũng là những chính sách quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 của Việt Nam nói riêng và thực hiện TTX nói chung.

Phía trước còn nhiều thách thức

Như vậy, về cơ bản chúng ta đã có các văn bản quan trọng có tính định hướng cao như chiến lược và có tính cụ thể như kế hoạch hành động để thực hiện TTX. Tuy nhiên, việc thực hiện chiến lược TTX giai đoạn 2021- 2030 gặp nhiều thách thức không nhỏ, đặc biệt là trong bối cảnh mới có nhiều biến động.

Tổng kết việc thực hiện chiến lược TTX của giai đoạn trước (2011-2020) cho thấy đã có một số kết quả tích cực như nâng cao một bước nhận thức về vai trò của TTX, yêu cầu phải thực hiện sản xuất xanh và tiêu dùng bền vững.

Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế chính sách và áp dụng một số giải pháp TTX ở một số lĩnh vực đã được triển khai như khu công nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ xanh (đặc biệt là du lịch xanh, du lịch bền vững), tiêu dùng xanh, thúc đẩy đô thị hóa theo hướng đô thị thông minh, bền vững ….

Tuy nhiên, trên thực tế còn khá nhiều hạn chế trong thực hiện các nội dung của chiến lược. Đa phần các mục tiêu về định lượng của chiến lược TTX giai đoạn trước là chưa đạt được.

Thách thức thực hiện TTX của giai đoạn tới tập trung ở các điểm sau:

(i) Nhận thức và tư duy đầy đủ về yêu cầu của TTX và quá trình chuyển đổi xanh, nhất là tư duy có thể hy sinh lợi ích trước mắt để có lợi ích lâu dài và to lớn trong tương lai;

(ii) Hoàn thiện, cụ thể hoá và đặc biệt là thực thi các chính sách thực hiện TTX trên thực tế (có kế hoạch hành động và thực thi tốt kế hoạch đó ở các ngành và địa phương) và tích hợp các nội dung triển khai Chiến lược TTX trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội các cấp, các ngành, các địa phương.

(iii) Ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ số, công nghệ xanh phục vụ cho các nội dung của TTX trong đó có chuyển dịch năng lượng sang hướng năng lượng tái tạo, xanh hoá và số hoá sản xuất, giảm phát thải và giảm tiêu hao năng lượng, giảm ô nhiễm môi trường, thực hiện kinh tế số...;

(iv) Đào tạo và xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng để thực hiện các nội dung của TTX, nhất là phục vụ cho chuyển dịch năng lượng, phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao…;

(v) Huy động và đa dạng các nguồn lực tài chính cho thực hiện TTX và làm rõ cơ sở cho tài chính xanh vận hành, ví dụ như làm rõ tiêu chí của dự án xanh, làm rõ căn cứ để thực hiện trái phiếu doanh nghiệp xanh, tín dụng xanh, ngân hàng xanh…;

(vi) Thực hiện kinh tế tuần hoàn với việc hình thành các chuỗi giá trị gia tăng, chuỗi cung ứng mới thông qua áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn để tối đa hóa giá trị nguyên liệu, vật liệu và chất thải; Thúc đẩy hình thành, phát triển các mô hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ áp dụng kinh tế tuần hoàn, tạo việc làm xanh…

(vii) Xây dựng cơ sở dữ liệu và số liệu thống kê đầy đủ và có thể chia sẻ, khai thác để phục vụ cho đầu tư phát triển, cho kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực xanh cũng như phục vụ cho việc đánh giá giám sát việc thực hiện.

(viii) Xây dựng văn hoá sống xanh, lối sống xanh đòi hỏi phải có thời gian và sự kiên trì;

(ix) Kết nối và phối hợp giữa các chủ thể, các ngành, các địa phương và vùng trong thực hiện hiệu quả các nội dung của TTX.

Đây cũng chính là những yêu cầu và là cơ sở đặt ra phải có các giải pháp tương ứng để đối mặt và vượt qua các thách thức này trong bối cảnh mới.

Tận dụng cơ hội để đi nhanh cùng thế giới

Bên cạnh đó, có nhiều cơ hội cho Việt Nam để chuyển đổi xanh và thực hiện TTX. Trong số các cơ hội trong bối cảnh mới, có một cơ hội rất lớn cho Việt Nam là Việt Nam có xuất phát điểm thấp, mô hình tăng trưởng nâu chưa đạt ở mức cao.

Vì thế, sửa chữa mô hình, chuyển đổi mô hình từ nâu sang xanh sẽ dễ hơn và ít chi phí xã hội hơn. Đây là lợi thế của người đi sau.

Ngoài ra, Việt Nam có dân số đông và cơ cấu dân số vàng. Lực lượng dân số trẻ, năng động, dễ tiếp cận với công nghệ, dễ tiếp thu cái mới là nguồn lực quan trọng để có thể thực hiện TTX vốn đòi hỏi phải áp dụng nhiều công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang mang lại nhiều đột phá về công nghệ mới giúp giảm chi phí của ứng dụng công nghệ mới, giúp nâng cấp về công nghệ để thực hiện xanh hoá sản xuất và chuyển dịch năng lượng.

Mở rộng hội nhập và hợp tác quốc tế cũng đang là cơ hội rất tốt cho Việt Nam để tiếp tục thu hút các dự án FDI mới, dự án FDI chất lượng, phục vụ chuyển đổi xanh trong điều kiện chuỗi cung ứng toàn cầu đang được cơ cấu lại.

Tăng cường hợp tác quốc tế cũng giúp Việt Nam tiếp cận được các nguồn lực về tài chính - nguồn lực đặc biệt quan trọng - để thực hiện các kế hoạch đề ra.

Đầu tháng 12/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại hội nghị COP28 ở Dubai (UAE) đã công bố kế hoạch huy động nguồn lực cho Thỏa thuận hợp tác chuyển dịch năng lượng công bằng (Just Energy Transition Partnership – JETP).

Đây là dấu mốc quan trọng cho việc huy động tài chính để thực hiện lộ trình phát triển carbon thấp, chống chịu với biến đổi khí hậu, đạt được mục tiêu của Quy hoạch điện VIII và thực hiện các mục tiêu TTX trong đó có mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam.

Với những cơ hội như vậy trong một thế giới đang chuyển động mạnh mẽ theo hướng xanh hoá, Việt Nam dường như đã hội tụ đầy đủ các điều kiện quan trọng để đi cùng và đi nhanh với cộng đồng thế giới.

Quyết liệt đi theo con đường TTX để đổi mới mô hình tăng trưởng, đạt được các mục tiêu thịnh vượng về kinh tế, công bằng về xã hội và bền vững về môi trường, đó là sự lựa chọn duy nhất cho Việt Nam.

Đó là hiệu lệnh của thời cuộc. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ