Quảng Bình – Quảng Trị cam kết giải ngân 90-100% vốn đầu tư công

Nhàđầutư
Trước thực trạng giải ngân vốn đầu tư công còn thấp, lãnh đạo hai địa phương Quảng Bình, Quảng Trị cam kết sẽ nỗ lực hết sức để đạt mức giải ngân cao nhất trong năm 2022, ở mức 100% hoặc tối thiểu hơn 90%.
NGỌC TÂN
29, Tháng 08, 2022 | 22:32

Nhàđầutư
Trước thực trạng giải ngân vốn đầu tư công còn thấp, lãnh đạo hai địa phương Quảng Bình, Quảng Trị cam kết sẽ nỗ lực hết sức để đạt mức giải ngân cao nhất trong năm 2022, ở mức 100% hoặc tối thiểu hơn 90%.

PTT Pham Binh Minh

Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp. Ảnh: Hồng Lựu

Ngày 29/8 tại TP. Đồng Hới, Quảng Bình, Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh và đoàn công tác đã làm việc với hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị để đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2022.

Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nhấn mạnh năm 2022, khối lượng giải ngân vốn đầu tư công rất lớn do ngoài nguồn vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, còn có vốn của chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội và 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Đến nay, tỷ lệ giải ngân trên cả nước mới đạt khoảng 40%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021, trong đó tỷ lệ giải ngân của Quảng Bình, Quảng Trị đạt dưới mức trung bình chung của cả nước.

Báo cáo tại cuộc họp, ông Võ Văn Hưng, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị cho biết, kế hoạch đầu tư công năm 2022 của tỉnh được giao là hơn 3.874 tỷ đồng, hiện nay, UBND tỉnh này đã phân bổ chi tiết hơn 3.826 tỷ đồng. Tính đến ngày 28/8/2022, tổng giá trị giải ngân các nguồn vốn đầu tư công do tỉnh Quảng Trị quản lý là hơn 1.174 tỷ đồng, đạt 34% kế hoạch.

Đối với tỉnh Quảng Bình, ông Đoàn Ngọc Lâm, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Quảng Bình cho biết, trong năm 2022, tổng số vốn đầu tư công tỉnh Quảng Bình được giao 6.186 tỷ đồng. Tính đến ngày 31/7/2022, tỷ lệ giải ngân theo kế hoạch của tỉnh triển khai đạt 27,06%, nếu chỉ tính kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao năm 2022 thì tỷ lệ giải ngân đạt 30%, dự ước đến hết tháng 8 tỷ lệ giải ngân đạt 42,6% và tháng 9 tỷ lệ giải ngân đạt 56,2%.

Tại cuộc họp, lãnh đạo tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình chỉ ra các nguyên nhân giải ngân chậm là do thời gian giao vốn năm 2021 chậm; công tác đền bù giải phóng mặt bằng gặp khó khăn do giá đất tăng; giá cả nguyên vật liệu xây dựng tăng cao; thời gian hoàn thành thủ tục đầu tư, nhất là đối với các dự án mới dài; năng lực của một số chủ đầu tư, tư vấn, nhà thầu, ban quản lý dự án còn hạn chế...

anh hung

Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị Võ Văn Hưng nêu ra một số khó khăn dẫn đến việc giải ngân đầu tư công còn thấp. Ảnh: Báo Quảng Bình

Lãnh đạo cả 2 địa phương cam kết sẽ nỗ lực để đạt mức giải ngân cao nhất trong năm 2022. Cụ thể, từ nay đến cuối năm, cả 2 địa phương sẽ hoàn thành giải ngân 100% vốn đầu tư công theo đúng kế hoạch, hoặc tối thiểu phải đạt hơn 90%.

Hai địa phương cũng đồng thời kiến nghị, đề xuất đối với Phó Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương cần phối hợp thẩm định một lần để rút ngắn thời gian chuẩn bị thủ tục các dự án đầu tư công; nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia.

Liên quan đến những khó khăn, vướng mắc thuộc thẩm quyền của các địa phương, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh yêu cầu lãnh đạo tỉnh phải chịu trách nhiệm và quyết tâm cao để tập trung tháo gỡ. Những vấn đề vượt thẩm quyền, các bộ, ngành Trung ương phối hợp chặt chẽ để tham mưu và trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, trong đó có những vướng mắc liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất.

Đối với triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, Phó Thủ tướng đề nghị 2 tỉnh báo cáo cụ thể về các vướng mắc trong thực hiện. Tinh thần của Chính phủ đối với 3 chương trình mục tiêu quốc gia là phân cấp, phân quyền rất nhiều cho các địa phương để chủ động triển khai. Quá trình thực hiện có vướng mắc thì khẩn trương báo cáo để điều chỉnh, còn các bộ, ngành không đưa thêm các điều khoản quá chặt chẽ trong thông tư, trong các quy định.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26797.00 26905.00 28111.00
GBP 31196.00 31384.00 32369.00
HKD 3185.00 3198.00 3303.00
CHF 27497.00 27607.00 28478.00
JPY 161.56 162.21 169.75
AUD 16496.00 16562.00 17072.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 673.00 676.00 704.00
CAD 18212.00 18285.00 18832.00
NZD   15003.00 15512.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3598.00 3733.00
SEK   2304.00 2394.00
NOK   2295.00 2386.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ