Lãi suất trước những thử thách mới

Nhu cầu vay vốn của người dân và doanh nghiệp trên địa bàn TPHCM - trung tâm tài chính của Việt Nam - vẫn ở mức rất cao trong bảy tháng đầu năm nay.
HẢI LÝ
19, Tháng 08, 2018 | 07:20

Nhu cầu vay vốn của người dân và doanh nghiệp trên địa bàn TPHCM - trung tâm tài chính của Việt Nam - vẫn ở mức rất cao trong bảy tháng đầu năm nay.

Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thành phố, cho biết tỷ lệ cho vay trên vốn huy động của các ngân hàng ở thành phố đã lên đến gần 90%.

Cụ thể tổng vốn huy động đạt 2.150.600 tỉ đồng, tăng 7,21% so với cuối năm ngoái, trong khi cho vay 1.928.000 tỉ đồng, tăng 9,47%. Mức tăng trưởng huy động thấp hơn tăng trưởng tín dụng đã tác động đến mặt bằng lãi suất chung. Lãi suất huy động dưới sáu tháng được nhiều ngân hàng áp dụng ở mức kịch trần 5,5%/năm theo quy định của cơ quan quản lý. Còn lãi suất tiền gửi từ 6-12 tháng ở mức 6,8-8,2%/năm, trong đó mức phổ biến là 6,8-7%/năm.

3a2f2_lai_suat_truoc_nhung_thu_thach_moi

Áp lực đang đè nặng lên lãi suất không chỉ do sự mất cân đối kỳ hạn huy động và cho vay, mà còn từ kỳ vọng tỷ giá cũng như lạm phát. Ảnh: NGUYỄN NAM

“Các ngân hàng đang đứng trước đòi hỏi phải giải quyết sự mất cân đối kỳ hạn trong huy động vốn, nên cần tính toán nâng tỷ trọng vốn huy động trung, dài hạn. Muốn thế, bắt buộc phải điều chỉnh lãi suất tiết kiệm các kỳ hạn dài trên một năm”, ông Minh nói. Hiện nay NHNN vẫn cho phép các tổ chức tín dụng sử dụng tối đa 45% vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, nhưng từ ngày 1-1-2019 tỷ lệ này sẽ giảm về 40%. Trong cơ cấu vốn huy động hiện hành, tiền gửi ngắn hạn chiếm 85%, trong khi dư nợ cho vay trung, dài hạn đang ở mức 53%.

Tuy nhiên áp lực đang đè nặng lên lãi suất không chỉ do sự mất cân đối kỳ hạn huy động và cho vay, mà còn từ kỳ vọng tỷ giá cũng như lạm phát. Trên thị trường trái phiếu, lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn một năm và hai năm đã tăng mạnh từ giữa tháng 7-2018 do biến động tỷ giá. Chỉ trong một tháng, lãi suất trái phiếu một năm tăng tới 163 điểm, kỳ hạn hai năm tăng 140 điểm. Từ ngày 29-6 đến 10-8-2018 lãi suất trái phiếu kỳ hạn một năm “chạy” từ 2,24% lên 3,93%/năm (nguồn Hnx). Việc lãi suất trái phiếu ngắn hạn tăng gấp đôi chỉ còn là vấn đề thời gian.

Mức “nhảy” của lãi suất trái phiếu đồng thuận với lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng. Ngày 10-8-2018 lãi suất qua đêm tiền đồng liên ngân hàng vẫn đứng ở 4,42%/năm.

Dù muốn hay không, NHNN đang ở thế bắt buộc duy trì lãi suất tiền đồng liên ngân hàng cao gấp đôi hoặc chí ít là gấp rưỡi lãi suất đô la Mỹ để ngăn chặn đầu cơ ngoại tệ. Tiền đồng đã được cơ quan quản lý hút ròng về thông qua tín phiếu và cả kênh thị trường mở với lãi suất cao hơn cho các kỳ hạn dài hơn.

Ở một góc khác, để đảm bảo chỉ tiêu lạm phát cả năm và không dồn quá nhiều gánh nặng cho lạm phát năm tới, NHNN đang kiểm soát chặt tín dụng. Hạn mức cho vay của nhiều ngân hàng đang cạn dần. Nếu muốn cho vay thêm, chỉ còn cách xử lý nợ xấu và tăng tổng tài sản thông qua huy động vốn. Một số ngân hàng nỗ lực phát hành trái phiếu cấp hai để cải thiện hệ số an toàn vốn, nhờ đó có thể mở thêm chút ít cánh cửa tín dụng.

Từ nay đến cuối năm và năm sau, chiếc kiềng ba chân tỷ giá - lãi suất - lạm phát đang chịu nhiều thử thách. Nhận định về tỷ giá, ông Minh cho biết theo dự báo của các chuyên gia mà ông tham khảo ý kiến, tỷ giá trung tâm do NHNN công bố hàng ngày có thể tăng 2,2% nghĩa là đồng Việt Nam giảm 2,2% so với đô la Mỹ. Tỷ giá trung tâm ngày 2-1-2018 là 22.415 đồng/đô la Mỹ, ngày 13-8-2018 là 22.686 đồng/đô la Mỹ, tức tiền đồng mất giá 1,2%. Trong trường hợp tỷ giá trung tâm biến động 1% nữa như dự báo, tỷ giá niêm yết của các ngân hàng thương mại có thể thay đổi thêm 1% kể từ mức hiện tại.

Trong kinh doanh các ngân hàng cũng có dự báo riêng của họ về tỷ giá. Nếu tỷ giá biến động càng mạnh thì áp lực lên lãi suất càng mạnh và ngược lại. Với khoảng 1% tỷ giá, giả sử, biến động thêm, gửi tiết kiệm tiền đồng tính từ thời điểm này trở đi vẫn lợi hơn nắm giữ ngoại tệ. Thế nhưng với những ai đã gửi tiết kiệm từ đầu năm, trên 2% biến động của tỷ giá cộng với lạm phát cả năm dự kiến 4%, thì lãi suất tiền gửi chỉ vừa đủ bù đắp lạm phát và tỷ giá.

Chính vì thế thị trường huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế hiện nay rất đa dạng. Sếp của bộ phận nguồn vốn của một ngân hàng nhận xét giờ đây thị trường huy động vốn giống như cái chợ. Người gửi tiền đến ngân hàng, nhất là những người có khoản gửi từ 500 triệu đến 1 tỉ đồng trở lên, đều thương lượng để được hưởng lãi suất cao hơn mức niêm yết. Không ít ngân hàng niêm yết lãi suất lũy tiến theo mức tiền gửi. Thí dụ dưới 100 triệu đồng, từ 100 triệu đến 500 triệu đồng, trên 500 triệu đến 5 tỉ đồng, trên 5 tỉ đồng... Mức xê dịch lãi suất cho mỗi hạn mức gửi từ sáu tháng trở lên thường là 0,1%/năm.

Ngay trong hệ thống một ngân hàng, kể cả các ngân hàng nửa quốc doanh, lãi suất huy động vốn khá linh hoạt. Hội sở phân quyền cho các vùng miền, khu vực, chi nhánh được áp dụng một khung lãi suất tùy theo hạn mức để các nơi này quyết định cho từng thời điểm cụ thể. Lãi suất ở khu vực đô thị có thể cao hơn ở khu vực nông thôn, ở TPHCM có thể cao hơn Hà Nội...

Chênh lệch lãi suất tiết kiệm giữa các ngân hàng lớn Vietcombank, BIDV, VietinBank, Agribank và khối ngân hàng cổ phần đang có xu hướng ngày một thu hẹp do các khoản tiền gửi của Kho bạc, của Bộ Tài chính ở các ngân hàng lớn đang dần được rút về gửi ở NHNN. Khi những khoản vốn huy động quy mô, giá rẻ không còn, lãi suất tiết kiệm sẽ chỉ còn phụ thuộc vào uy tín của các ngân hàng. Dẫu thế ở Việt Nam, gửi tiết kiệm ở đâu cũng đảm bảo bởi Nhà nước chưa bao giờ để người gửi tiền là dân cư thiệt hại cho dù ngân hàng đó bị kiểm soát đặc biệt.  

Theo The Saigontimes

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ