7 sự kiện lớn nhất liên quan tới tiền bạc tại Mỹ trong 2023

Nhàđầutư
Rất nhiều điều đã xảy ra vào năm 2023. Theo nhiều cách, môi trường kinh tế sinh ra từ đại dịch Covid-19 đã kết thúc khi các khoản trợ cấp như tạm dừng thanh toán khoản vay sinh viên và trợ cấp SNAP mở rộng đã hết hạn ở Mỹ.
AN AN
31, Tháng 12, 2023 | 09:08

Nhàđầutư
Rất nhiều điều đã xảy ra vào năm 2023. Theo nhiều cách, môi trường kinh tế sinh ra từ đại dịch Covid-19 đã kết thúc khi các khoản trợ cấp như tạm dừng thanh toán khoản vay sinh viên và trợ cấp SNAP mở rộng đã hết hạn ở Mỹ.

Các nhà kinh tế và các công ty ở Mỹ đều lo lắng về một cuộc suy thoái, vốn vẫn chưa xảy ra, trong khi người tiêu dùng Mỹ thì than thở về tình trạng giá cả leo thang và cảm giác về một nền kinh tế bấp bênh.

Nhìn chung, đó là một loạt tin tức kinh tế khá hỗn tạp diễn ra trong suốt năm 2023, từ nợ tiêu dùng gia tăng đến tỷ lệ thất nghiệp thấp ổn định. Dưới đây là một số câu chuyện chính liên quan tới tiền bạc trong năm 2023 ở Mỹ.

Nợ sinh viên tăng lên 1,6 nghìn tỷ USD

Các sinh viên vay vốn đã dành nửa đầu năm với hy vọng số dư của họ sẽ giảm bớt, nếu không muốn nói là xóa sạch, vào cuối mùa hè. Tuy nhiên, rất nhiều người đã phải tiếp tục nửa cuối năm để tìm cách thanh toán các khoản nợ.

No sinh vien David Sklar

Nợ sinh viên ở Mỹ đã lên tới 1,6 nghìn tỷ USD trong năm 2023. Minh họa của David Sklar

Theo dữ liệu của Fed New York, đến cuối quý 3, những người đi vay phải gánh khoản nợ tổng cộng 1,6 nghìn tỷ USD. Tháng 9 đánh dấu tháng đầu tiên các khoản vay liên bang dành cho sinh viên sẽ tích lũy lãi suất kể từ năm 2020 và người đi vay phải tiếp tục thanh toán vào tháng 10.

Mặc dù nỗ lực của Tổng thống Joe Biden nhằm xóa bớt số tiền lên tới 20.000 USD cho mỗi người vay sinh viên đã bị Tòa án tối cao chặn vào tháng 6, nhưng chính quyền của ông vẫn miễn giảm cho 3,6 triệu người Mỹ thông qua việc cải thiện chương trình Miễn nợ cho Dịch vụ Công, các chương trình trả nợ theo thu nhập và giải quyết tình trạng tàn tật.

Lãi suất thế chấp đạt 8%

mortgage_rates-3

Đồ họa của USA Today

Khi lãi suất trung bình của các khoản thế chấp có lãi suất cố định 30 năm đạt 8% vào tháng 10, những người vốn đã kiệt sức vì tình trạng thị trường nhà đất có thể phải chứng kiến ​​sự căng thẳng của họ lên một mức mới. Mức lãi suất trung bình toàn quốc chưa bao giờ đạt 8% kể từ năm 2000.

Chỉ ba năm trước đó, vào tháng 10 năm 2020, lãi suất ở mức khá thoải mái dưới 3%. Nhưng khi lạm phát gia tăng trong suốt năm 2021 và 2022, Fed đã vào cuộc để chế ngự nó bằng cách tăng lãi suất mục tiêu, đẩy chi phí vay tiền lên cao.

Khi lạm phát chậm lại, Fed đã có thể tạm dừng tăng lãi suất và tính đến tháng 11, lãi suất thế chấp đã giảm xuống dưới 7%. Mặc dù lãi suất thế chấp và giá nhà vẫn cao hơn mức mà nhiều người muốn mua, nhưng lãi suất có thể tiếp tục giảm trong năm tới do Fed dự kiến tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản.

Lạm phát hạ nhiệt xuống 3,1%

cpi

Đồ họa nguồn BStyle

Chỉ số giá tiêu dùng 12 tháng, theo dõi sự thay đổi giá của tất cả các mặt hàng, tiếp tục giảm gần như hàng tháng cho đến năm 2023, đạt mức 3,1% trong tháng 11. Theo Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ, con số này vẫn chưa hoàn toàn đạt mục tiêu khoảng 2% của Fed, nhưng đã giảm từ mức 6,4% vào tháng 1 năm nay.

Mặc dù không tăng nhanh như năm 2022 nhưng giá các mặt hàng hàng ngày từ hàng tạp hóa đến gas vẫn ở mức cao cho đến năm 2023.

Nợ thẻ tín dụng đạt 1,08 nghìn tỷ USD

Credit Debt

Minh họa của The New York Times

Trái ngược với sự gia tăng tài sản của các hộ gia đình, nợ thẻ tín dụng tiêu dùng lại đạt mức cao mới. Vào tháng 11, khoản nợ thẻ tín dụng tích lũy của người Mỹ đã vượt mốc nghìn tỷ USD do chi tiêu vẫn ở mức cao bất chấp giá cả vẫn tăng cao.

Mặc dù Hoa Kỳ đã cố gắng tránh rơi vào tình trạng suy thoái nhưng các chuyên gia tài chính cũng như người sử dụng thẻ tín dụng vẫn gặp rắc rối với số dư thẻ tín dụng dai dẳng và lãi suất trung bình trên 20%.

Tỷ lệ thất nghiệp dao động quanh mức 3,6%

minnesotas-unemployment-rate

Minh họa của SelfCompanies

Trong bối cảnh lo ngại suy thoái kinh tế đang diễn ra và các công ty lớn tuyên bố sa thải, tỷ lệ thất nghiệp vẫn khá ổn định, trung bình 3,6% trong 11 tháng đầu năm và hạ cánh ở mức 3,7% trong tháng 11.

Mặc dù cơ hội việc làm đã bắt đầu giảm nhưng thị trường lao động vẫn kiên cường trong suốt cả năm.

Tài sản hộ gia đình tăng 37%

House_Value_Rising

Minh họa của The Fiscal Times

Bạn có cảm thấy giàu có hơn trước khi đại dịch Covid-19 bắt đầu không? Khảo sát mới nhất về tài chính tiêu dùng do Cục Dự trữ Liên bang thực hiện cho thấy giá trị tài sản ròng trung bình của hộ gia đình Mỹ đã tăng 37% từ năm 2019 đến năm 2022.

Cuộc khảo sát được thực hiện ba năm một lần cho thấy giá trị tài sản ròng trung bình của tất cả các hộ gia đình ở Hoa Kỳ đạt 192.900 USD vào năm 2022, tăng từ mức 141.100 USD vào năm 2019.

Cuộc khảo sát cho thấy giá trị tài sản ròng trung bình của các hộ gia đình ở Hoa Kỳ đã tăng lên 1,06 triệu USD vào năm 2022, tăng từ mức 868.000 USD vào năm 2019. Hãy nhớ rằng giá trị tài sản ròng trung bình có thể bị sai lệch bởi các hộ gia đình siêu giàu, số lượng ít nhưng tài sản lại nhiều. Theo dữ liệu của Fed, 1% người Mỹ giàu nhất sở hữu 23% tài sản hộ gia đình của đất nước.

Ngành công nghệ sa thải hơn 250.000 công nhân

laid-off-workers

Minh họa của IEEE

Theo trang web theo dõi Layoffs.fyi, đây là một năm đầy biến động đối với ngành công nghệ ở Mỹ, khi đã mất 260.509 việc làm tính đến ngày 22 tháng 12. Trang web đưa tin, con số đó nhiều hơn gần 100.000 trường hợp so với mức sa thải của cả năm 2022.

1.175 công ty đã sa thải nhân viên trong năm bao gồm những gã khổng lồ công nghệ như Amazon, Meta và Microsoft.

Việc Fed tăng lãi suất và lo ngại về một cuộc suy thoái sắp tới đã khiến ngành này đặc biệt dễ bị cắt giảm lao động sau nhiều năm tăng trưởng gần như không bị ràng buộc.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ