2.000 tỷ trái phiếu và tham vọng mới của Hưng Thịnh Land

Nhàđầutư
Hàng nghìn tỷ đồng đã được Hưng Thịnh Land huy động qua nhiều kênh khác nhau chỉ trong ít tháng vừa qua, phần nào hé lộ tham vọng mới của ông lớn địa ốc hàng đầu Sài Thành.
XUÂN TIÊN
17, Tháng 10, 2019 | 15:29

Nhàđầutư
Hàng nghìn tỷ đồng đã được Hưng Thịnh Land huy động qua nhiều kênh khác nhau chỉ trong ít tháng vừa qua, phần nào hé lộ tham vọng mới của ông lớn địa ốc hàng đầu Sài Thành.

hung-thinh-land-nhadautu.vn

 

CTCP Hưng Thịnh Land vừa công bố kết quả phát hành trái phiếu theo phương thức riêng lẻ với hai đợt vào ngày 12/9/2019 và 30/9/2019.

Ở đợt phát hành thứ nhất, tổng giá trị chào bán là 500 tỷ đồng kỳ hạn 3 năm, có lãi suất năm đầu tiên là 11%/ năm; giá trị đợt chào bán thứ hai là 200 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm với lãi suất 10,5%/ năm.

Kết quả, Hưng Thịnh Land bán thành công 323,4 tỷ đồng cho nhà đầu tư cá nhân trong đợt 1 và toàn bộ 200 tỷ đồng cho nhà đầu tư tổ chức trong đợt hai.

Trước đó, từ tháng 6/2019, Hưng Thịnh Land cũng đã phát hành 4 đợt trái phiếu khác và thu về tổng cộng 1.500 tỷ đồng với tỷ lệ thành công 100%.

Như vậy, chỉ trong 4 tháng, Hưng Thịnh Land đã thu về hơn 2.000 tỷ đồng qua kênh trái phiếu - con số đáng chú ý trong bối cảnh các công ty địa ốc đang khá chật vật tìm kiếm nguồn vốn hiện này. Và nó càng trở nên đặc biệt khi mà Hưng Thịnh Land trước nay được biết đến với vai trò sàn phân phối cho tập đoàn mẹ - Hưng Thịnh Corp (CTCP Đầu tư Kinh doanh Địa ốc Hưng Thịnh) và các chủ đầu tư phía Nam.

Hưng Thịnh Land tiền thân là Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Tư vấn Đầu tư Đồng tiến được thành lập năm 2002, sau đổi tên thành CTCP Sàn giao dịch Bất động sản Hưng Thịnh, trước khi chính thức lấy tên Hưng Thịnh Land vào năm 2017.

Trong suốt nhiều năm trở lại, Hưng Thịnh Land là một trong những nhà phân phối bất động sản lớn nhất ở thị trường TP.HCM lẫn các tỉnh thành xung quanh. Năm 2018, đơn vị này đã xây dựng hệ thống phân phối rộng khắp với 8 sàn giao dịch và hơn 1.200 nhân viên ở TP.HCM, Vũng Tàu và Hà Nội.

Năm 2018, Hưng Thịnh Land tăng mạnh vốn từ 200 tỷ đồng lên 1.600 tỷ đồng và xác định chiến lược chuyển đổi mạnh mẽ từ sàn giao dịch trở thành nhà phát triển bất động sản chuyên nghiệp. Trong năm nay, Hưng Thịnh Land đã chuyển giao mảng hoạt động môi giới cho công ty con CTCP Property X để tập trung phát triển dự án (được chuyển từ tập đoàn mẹ Hưng Thịnh Corp) và M&A các dự án trên thị trường.

Hiện danh mục dự án của Hưng Thịnh Land đã lên tới con số 12, tập trung chủ yếu tại TP.HCM, ngoài ra còn Đồng Nai, Vũng Tàu, Khánh Hoà, Bình Thuận, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Q7 Saigon Riverside (gần 4.000 căn), Biên Hoà New City (1.600 nền), Lavita Charm Thủ Đức (hơn 1.000 căn); Richmond City Bình Thạnh (1.200 căn); Golden Bay 602 Cam Ranh hơn 2.000 nền...

Với chiến lược mới, tổng tài sản của Hưng Thịnh Land gia tăng nhanh chóng, từ 400 tỷ đồng cuối năm 2016 lên gấp gần 10 lần (3.800 tỷ đồng) cuối năm vừa qua, đi kèm với kết quả kinh doanh khá ấn tượng: Doanh thu 1.105 tỷ đồng, lãi trước thuế 382 tỷ đồng năm 2018.

Để triển khai các dự án trong danh mục phát triển, nhu cầu vốn của Hưng Thịnh Land sắp tới sẽ là rất lớn, mà quan trọng nhất phải là nguồn nội lực. Trung tuần tháng 7/2019, Hưng Thịnh Land tiếp tục thực hiện tăng vốn từ 1.600 tỷ đồng lên 2.400 tỷ đồng. Thành viên của Hưng Thịnh Corp cũng xác định ngoài kênh tín dụng ngân sách, phát hành trái phiếu cũng sẽ là kênh huy động vốn hiệu quả trong thời gian tới.

Ngoài ra, theo nguồn tin riêng của Nhadautu.vn, lãnh đạo Hưng Thịnh Corp đang tính toán để thực hiện niêm yết cổ phiếu Hưng Thịnh Land nhằm hướng tới dòng vốn khổng lồ trên sàn chứng khoán. Cuối năm ngoái, Hưng Thịnh Corp đã thí điểm khi cho CTCP Hưng Thịnh Incons có vốn 250 tỷ đồng niêm yết trên sàn HoSE.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24550.00 24560.00 24880.00
EUR 26323.00 26429.00 27594.00
GBP 30788.00 30974.00 31925.00
HKD 3099.00 3111.00 3212.00
CHF 27288.00 27398.00 28260.00
JPY 161.63 162.28 169.90
AUD 15895.00 15959.00 16446.00
SGD 18115.00 18188.00 18730.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 17917.00 17989.00 18522.00
NZD   14768.00 15259.00
KRW   17.70 19.32
DKK   3538.00 3670.00
SEK   2323.00 2415.00
NOK   2274.00 2365.00
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ