Thị trường sữa được dự báo tăng trưởng ‘một con số’ trong năm 2020

Nhàđầutư
Năm 2020 dự báo tăng trưởng của ngành sữa sẽ ở mức một chữ số do mức chi tiêu cho các mặt hàng tiêu dùng của người Việt Nam nói chung bắt đầu chững lại khi đã đáp ứng đủ các nhu cầu cơ bản, thay vào đó, họ chuyển sang chi tiêu theo sở thích để thỏa mãn các nhu cầu cao hơn.
THANH HƯƠNG
11, Tháng 01, 2020 | 07:00

Nhàđầutư
Năm 2020 dự báo tăng trưởng của ngành sữa sẽ ở mức một chữ số do mức chi tiêu cho các mặt hàng tiêu dùng của người Việt Nam nói chung bắt đầu chững lại khi đã đáp ứng đủ các nhu cầu cơ bản, thay vào đó, họ chuyển sang chi tiêu theo sở thích để thỏa mãn các nhu cầu cao hơn.

milk-2-15785554523492142318049

Tăng trưởng các mặt hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) theo quý, nguồn SSI Research

Theo báo cáo về thị trường sữa vừa được SSI Research công bố thì năm 2019 ngành này chỉ tăng 0,5% về vốn hóa thị trường, thấp hơn so với mức tăng 7,7% của VN-Index.

Các doanh nghiệp đầu ngành như Vinamilk, đường Quảng Ngãi… được cho là có mức tăng trưởng thấp so với năm 2018, kéo theo giá cổ phiếu của những đơn vị này không cao. Cụ thể, giá cổ phiếu VNM chỉ tăng 0,72% do tăng trưởng lợi nhuận năm 2019 thấp, trong khi giá cổ phiếu QNS giảm 20,5% do áp lực bán liên tiếp của cổ đông nội bộ.

Nhìn toàn cảnh thị trường, theo Nielsen, lượng tiêu thụ sữa đã bắt đầu ổn định từ quý 2/2019 sau 6 quý giảm liên tiếp kể từ quý 4/2017. Tốc độ tăng trưởng lượng tiêu thụ mặc dù ở mức dương nhưng thấp, đạt 2,1-3,9% theo năm, chỉ tương đương với CPI. Trong số các mặt hàng tiêu dùng nhanh (FMCG), sản phẩm từ sữa (chiếm 13% tổng sản lượng tiêu thụ hàng FMCG) là một trong những ngành hàng có mức tăng trưởng tiêu thụ kém nhất.

Ngược lại, số liệu theo Euromonitor có vẻ khả quan hơn với tổng quy mô thị trường sữa Việt Nam năm 2019 đạt 121.000 tỷ đồng, tăng 8,9%. Theo dữ liệu này, lượng tiêu thụ sữa uống và sữa chua tăng trưởng vượt trội (tăng 9,9% và tăng 11,6% theo sản lượng), trong khi sữa bột và sữa đặc tăng trưởng tương tự như kết quả của Nielsen (chỉ tăng 2,1% và 2,7%). Riêng sữa công thức cho trẻ sơ sinh trở nên ít được ưa chuộng hơn do chiến dịch quảng bá rộng rãi nuôi con bằng sữa mẹ. Trong khi đó, có rất nhiều lựa chọn thay thế cho trẻ lớn hơn, như sữa tươi hay các loại sữa hạt, ngũ cốc, cháo tươi và các loại khác.

Về kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm của doanh nghiệp sữa, VNM đã đạt 42.070 tỷ đồng doanh thu thuần (tăng 6,4% so với cùng kỳ 2018) và 8.380 tỷ đồng lợi nhuận ròng (tăng 5,8%). Trong đó, doanh thu trong nước tăng 6,1%, khá sát với ước tính của ban lãnh đạo là 5 - 7% theo sản lượng. Tuy nhiên, kết quả này thấp hơn kỳ vọng của thị trường. Cho cả năm 2019, SSI Research ước tính doanh thu của VNM sẽ đạt kết hoạch đề ra trong khi lợi nhuận ròng sẽ tăng trưởng khoảng 5%.

Mảng kinh doanh sữa đậu nành của Đường Quảng Ngãi (QNS) cũng ghi nhận sự tăng trưởng khả quan, đạt 15% tăng trưởng doanh thu và 24% tăng trưởng lợi nhuận trước thuế. Gần đây, QNS đã công bố kết quả kinh doanh sơ bộ năm 2019, với doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế đạt 8.000 tỷ đồng (giảm nhẹ 0,4%) và 1.200 tỷ đồng (giảm 2,9%). Còn đối với Sữa Mộc Châu, doanh thu của doanh nghiệp này tăng nhẹ 4,1% sau 9 tháng. 

SII Research cho rằng, một số xu hướng thay đổi mang tính cấu trúc tác động đến ngành sữa trong năm 2019, bao gồm:

Thứ nhất, tăng tiêu thụ sữa thực vật. Theo đó, sữa đậu nành và sữa lúa mạch được coi là lựa chọn thay thế tốt nhất cho sữa bò, nhờ hàm lượng protein cao. Theo Nielsen, tổng giá trị tiêu thụ sữa đậu nành có thương hiệu tăng 13% trong 10 tháng đầu và tăng trưởng doanh thu của Vinasoy đạt 15% sau 9 tháng đầu năm 2019.

Thứ hai, về phân phối năm 2019 cho thấy doanh thu qua các kênh thương mại hiện đại đã tăng trưởng hai chữ số trong nhiều quý, tuy nhiên chỉ chiếm 11% trong tổng doanh thu hàng FMCG. Bán hàng thông qua kênh thương mại hiện đại là một mảng đầy thách thức cho các công ty sữa, do cạnh tranh gay gắt và rào cản gia nhập thấp.

Thứ ba, giá sữa nguyên liệu và giá bán trung bình đều tăng. Theo Global Dairy Trade, giá sữa bột gầy tăng 30% so với cùng kỳ và giá sữa bột nguyên kem tăng 4%. Để đảm bảo biên lợi nhuận, những công ty lớn như Vinamilk, TH True Milk và Dutch Lady đều đã tăng giá bán thêm 1-5% vào năm 2019.

Cuối cùng, về xuất khẩu, điểm sáng năm 2019 là sau nhiều năm chờ đợi, ngành sữa Việt Nam đã được phép xuất khẩu sản phẩm sang Trung Quốc. Đây là một thị trường cạnh tranh cao nhưng rất hấp dẫn, chỉ cần chiếm một phần nhỏ trong thị trường 60 tỷ USD này cũng có thể rất có ý nghĩa cho tăng trưởng trong tương lai của các công ty sữa Việt Nam.

b5c9e7242bf4e60031ea9ab7f19999f5_sua-vinamilk

Ngành sữa được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng trong năm 2020.

Ngành sữa dự báo tiếp tục tăng 1 chữ số

Hiện tại, doanh nghiệp trong ngành sữa đang tiếp tục cao cấp hóa sản phẩm. Đơn cử, Vinamilk đã đưa ra một số SKU cao cấp như sữa tươi organic, sữa công thức organic, sữa A2 và thuê sản xuất gia công sữa bột tại Nhật Bản (sau đó nhập khẩu trở lại Việt Nam).

Đánh giá về tăng trưởng của ngành sữa trong năm 2020, SSI Research cho rằng thị trường này sẽ tiếp tục tăng trưởng một chữ số khi mức chi tiêu cho các mặt hàng FMCG của người tiêu dùng Việt Nam nói chung bắt đầu chững lại khi đã đáp ứng đủ các nhu cầu cơ bản. Thay vào đó, họ thường chuyển sang chi tiêu theo sở thích để thỏa mãn các nhu cầu cao hơn (như là ăn/uống bên ngoài) và chi tiêu cho các mặt hàng không thiết yếu nhằm mục đích chung là nâng cao chất lượng cuộc sống.

Trong khi nhu cầu sữa ở thị trường thành thị dường như đã bão hòa, tiêu thụ ở thị trường nông thôn lại biến động lớn do tăng phụ thuộc vào giá mặt hàng nông nghiệp, tùy vào mức thu nhập khả dụng tại thị trường này quyết định mức chi tiêu cho các sản phẩm FMCG.

Nhìn chung, SSI Research ước tính các xu hướng mang tính cấu trúc kể trên sẽ tiếp diễn, giúp tác động hơn nữa đến ngành sữa Việt Nam. Các sản phẩm tiêu thụ ngày càng tăng bao gồm sữa tươi, sữa chua (đặc biệt là sữa chua uống) và các sản phẩm có giá trị gia tăng cao như phô mai, trong khi nhu cầu về sữa công thức tiêu chuẩn và sữa đặc có thể tiếp tục ảm đạm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24580.00 24600.00 24920.00
EUR 26295.00 26401.00 27567.00
GBP 30644.00 30829.00 31778.00
HKD 3103.00 3115.00 3217.00
CHF 27002.00 27110.00 27956.00
JPY 159.74 160.38 167.82
AUD 15898.00 15962.00 16448.00
SGD 18065.00 18138.00 18676.00
THB 664.00 667.00 695.00
CAD 17897.00 17969.00 18500.00
NZD   14628.00 15118.00
KRW   17.74 19.37
DKK   3535.00 3666.00
SEK   2297.00 2387.00
NOK   2269.00 2359.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ