Ngân hàng Nhà nước có thể tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ

Nhàđầutư
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright nhận định, trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát khá tốt, là yếu tố thuận lợi để NHNN tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ.
ĐÌNH VŨ
26, Tháng 03, 2023 | 12:57

Nhàđầutư
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright nhận định, trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát khá tốt, là yếu tố thuận lợi để NHNN tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ.

Giao dich Ngan hang Coc tien 8

Ngân hàng Nhà nước có thể tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ. Ảnh: Trọng Hiếu.

Với động thái giảm lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, nhiều chuyên gia cho rằng đây là tín hiệu cho thấy bắt đầu xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ, đồng thời kỳ vọng lãi suất huy động và cho vay sẽ sớm hạ nhiệt.

Ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố giảm lãi suất điều hành, lãi suất liên ngân hàng đã giảm khá mạnh.

Theo số của cập nhật của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), lãi suất cho vay VND bình quân liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm trong phiên ngày 22/3 đã giảm xuống còn 1,55%/năm - mức thấp nhất kể giữa tháng 7/2022. So với cuối tuần trước, lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã giảm hơn một nửa và giảm 4,85 điểm % so với mức cao điểm ghi nhận hồi đầu tháng 3.

Tương tự, lãi suất các kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần và 1 tháng giảm mạnh xuống còn lần lượt 1,98%/năm, 2,26%/năm và 4,44%/năm.

Trên thị trường dân cư, lãi suất đã có dấu hiệu giảm trên diện rộng. Hiện chỉ còn 2 ngân hàng có lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng từ 9%/năm là ABBank và SCB. Trong những ngày gần đây, loạt ngân hàng từng có lãi suất trên 9%/năm đều đã điều chỉnh xuống dưới mốc này, gồm OceanBank, BaoVietBank, Kienlongbank,…

Tại OceanBank, lãi suất cao nhất của nhà băng này chỉ còn 8,8%/năm, áp dụng cho các khoản tiền gửi online, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, giảm 0,2 điểm % so với trước. Ngoài ra, lãi suất kỳ hạn 6 tháng giảm xuống còn 8,2%/năm.

Tại BaoVietBank, lãi suất cũng giảm khoảng 0,1-0,2 điểm % so với trước. Hiện lãi suất kỳ hạn 6 tháng ở mức 8,8%/năm, kỳ hạn 12 tháng là 8,9% và kỳ hạn 36 tháng là 8,5%/năm.

HDBank cũng mới điều chỉnh lãi suất từ ngày 23/3. Trong đó, lãi suất kỳ hạn 6 tháng hình thức tiết kiệm online giảm từ 9%/năm xuống 8,8%/năm. Lãi suất kỳ hạn 12 tháng giữ nguyên 8,8%/năm, lãi suất kỳ hạn 36 tháng 6,9%/năm.

Lãi suất tiết kiệm của nhóm Big 4 đang duy trì ở mức 7,2%/năm cho kỳ hạn 12 tháng.

Đáng chú ý, một số ngân hàng thay đổi lãi suất cơ sở (để tính lãi suất cho vay) theo định kỳ thời gian gần đây.

Tại Techcombank, từ ngày 22/3, ngân hàng áp dụng các mức lãi suất cho vay mới. Trong đó, lãi suất cơ sở chuẩn cho vay mua bất động sản, vay xây, sửa nhà, vay tiêu dùng thế chấp linh hoạt và vay mua ô tô ở mức 9,4%/năm.

Tương tự tại SHB từ ngày 22/3, lãi suất cơ sở cho kỳ hạn vay từ 12 tháng trở xuống là 10,7%-10,9/năm.

Chia sẻ mới đây, ông Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright cho rằng, lạm phát đã hạ nhiệt, giảm từ 4,9% trong tháng 1 xuống còn 4,3% trong tháng 2/2023. Dự báo lạm phát tháng 3 sẽ tiếp tục giảm so với tháng 2. Nếu từ nay đến tháng 5, lạm phát vẫn tiếp tục được kiểm soát dưới 4,5%, sẽ là yếu tố thuận lợi để Ngân hàng Nhà nước tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ.

"Một động thái tích cực hiện nay là NHNN đang liên tục mua vào dự trữ ngoại hối, sau khi đã bán ra khoảng 27 tỷ USD trong giai đoạn cuối năm ngoái nhằm hỗ trợ tỷ giá USD/VNĐ. Nếu xu hướng sắp tới VNĐ tiếp tục ổn định, NHNN tăng ngoại tệ dự trữ lên và bơm VNĐ ra sẽ là cơ hội đổi hướng chính sách tiền tệ sang bớt thắt chặt, dù chúng ta vẫn cần thận trọng", ông Nguyễn Xuân Thành đưa nhận xét.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24810.00 24830.00 25150.00
EUR 26278.00 26384.00 27554.00
GBP 30717.00 30902.00 31854.00
HKD 3125.00 3138.00 3240.00
CHF 26952.00 27060.00 27895.00
JPY 159.41 160.05 167.39
AUD 16033.00 16097.00 16586.00
SGD 18119.00 18192.00 18729.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 17923.00 17995.00 18523.00
NZD   14756.00 15248.00
KRW   17.51 19.08
DKK   3529.00 3658.00
SEK   2286.00 2374.00
NOK   2265.00 2354.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ