Khối ngoại bán ròng 5 tuần liền

Nhàđầutư
Kết thúc tuần giao dịch đầu tiên của tháng 10 (2-6/10), chỉ số chính VN-Index giảm 25,61 điểm (-2,22%), xuống 1.128,54 điểm và là tuần thứ 4 liên tiếp đi xuống. Đáng chú ý, khối ngoài tiếp tục bán ròng tuần thứ 5 liên tiếp, giá trị bán ròng trên HOSE là 389,1 tỷ đồng, trên HNX với giá trị 79,21 tỷ đồng.
KHÁNH AN
08, Tháng 10, 2023 | 07:00

Nhàđầutư
Kết thúc tuần giao dịch đầu tiên của tháng 10 (2-6/10), chỉ số chính VN-Index giảm 25,61 điểm (-2,22%), xuống 1.128,54 điểm và là tuần thứ 4 liên tiếp đi xuống. Đáng chú ý, khối ngoài tiếp tục bán ròng tuần thứ 5 liên tiếp, giá trị bán ròng trên HOSE là 389,1 tỷ đồng, trên HNX với giá trị 79,21 tỷ đồng.

Empty

Chứng khoán tiếp tục giảm trong tuần đầu tiên của tháng 10. Ảnh: Trọng Hiếu

Sau 3 tuần liên tiếp giảm điểm mạnh trong cuối tháng 9, thị trường chứng khoán bắt đầu tuần đầu tiên của quý IV/2023 với nhiều biến động. Theo đó, phiên đầu tuần ghi nhận thanh khoản thấp nhất kể từ tháng 5/2023. Áp lực bán gia tăng mạnh trong 2 phiên sau đó khiến cho chỉ số chính thậm chí chạm vùng hỗ trợ mạnh tại 1.105 điểm. Sang phiên cuối tuần, VN-Index đã lấy lại toàn bộ điểm số đã mất trong phiên trước đó và đóng cửa cao gần nhất phiên lên 1.128,54 điểm.

Kết thúc tuần giao dịch đầu tiên của tháng 10 (2-6/10), chỉ số VN-Index giảm 25,61 điểm (-2,22%), xuống 1.128,54 điểm và là tuần thứ 4 liên tiếp giảm. Thanh khoản trên sàn HOSE chỉ đạt hơn 73.303,2 tỷ đồng, giảm hơn 21% so với tuần trước, khối lượng giao dịch cũng giảm gần 20%.

Chỉ số HNX-Index giảm 5,9 điểm (-2,5%), xuống 230,45 điểm. Thanh khoản sàn HNX giảm 17,3% so với tuần trước xuống 8.740,16 tỷ đồng.

Xét theo mức độ đóng góp, MSN, PGV và DPM là những mã có tác động tiêu cực nhất đến VN-Index. Trong đó, tính riêng PGV đã lấy đi gần 0,5 điểm của chỉ số này. Ở chiều ngược lại, VCB, VHM và VNM là những mã có tác động tích cực nhất. Tính riêng VHM đã bù lại gần 2 điểm cho chỉ số.

Nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục bán ròng tuần thứ 5 liên tiếp, giá trị bán ròng trên HOSE là 389,1 tỷ đồng, bán ròng trên HNX với giá trị 79,21 tỷ đồng.

Nhóm bất động sản tiếp tục có diễn biến kém tích cực trong tuần qua khi đa số vẫn chịu áp lực giảm điểm mạnh, thanh khoản ở mức trung bình như QCG (-14,29%), CEO (-13,15%), DXG (-11,64%), DIG (-11,16%), NVL (-10,90%)... Cổ phiếu chứng khoán đa số cũng có diễn biến tiêu cực, chịu áp lực bán mạnh điển hình là CTS (-9,34%), WSS (-5,8%), VCI (-5,45%), BSI (-4,88%)... Nhóm cổ phiếu ngân hàng tiếp tục chịu áp lực điều chỉnh, nhiều mã giảm mạnh ảnh hưởng tiêu cực lên điểm số thị trường như NVB (-9,92%), TPB (-5,88%), EIB (-5,01%), BID (-4,85%), TCB (-4,99%)...

SHS nhận định thị trường trong ngắn hạn đang có tín hiệu hình thành đáy để có nhịp phục hồi mới và nhà đầu tư ngắn hạn có khả năng chịu đựng rủi ro cao có thể tham gia giải ngân tại các phiên điều chỉnh với quan điểm thận trọng bởi nhịp hồi nếu hình thành thì cũng chỉ mang tính kỹ thuật. Trong trung, dài hạn thị trường vẫn chưa lấy lại được xu hướng uptrend nhưng sẽ sớm tìm điểm cân bằng mới và tích lũy lại nên rủi ro trung dài hạn không cao.

Còn theo SSI, các chỉ báo kỹ thuật như RSI và ADX đều vận động theo chiều hướng tích cực dần, tuy nhiên trạng thái rõ nét cho sự tăng trưởng cần thêm thời gian. Và với nhịp tăng phiên cuối tuần, chỉ số tiếp tục hướng đến mục tiêu ngắn hạn tại vùng 1.136 - 1.140 trong phiên tới.

Về phần mình, VDSC cho biết thanh khoản phiên 6/10 tăng nhưng vẫn ở mức thấp cho thấy áp lực bán giá thấp vẫn chưa quyết liệt, đặc biệt là động thái bán mạnh của khối ngoại trong phiên ngày thứ Năm đã không tiếp diễn trong phiên cuối tuần. Nhóm phân tích này cho rằng có khả năng thị trường sẽ tiếp tục quá trình hồi phục kỹ thuật, tuy nhiên có thể gặp khó do dòng tiền chưa cải thiện đáng kể và áp lực từ vùng cản 1.140 điểm vẫn còn hiện hữu.

Do vậy, nhà đầu tư cần quan sát và đánh giá cung cầu khi thị trường hồi phục, tạm thời vẫn cần cân nhắc khả năng hồi phục của thị trường để cơ cấu lại danh mục theo hướng giảm thiểu rủi ro.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ