GRDP Quảng Nam giảm 9,2%, thấp thứ 2 cả nước

Nhàđầutư
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước tính 6 tháng đầu năm 2023 giảm 9,2% so với cùng kỳ. Với mức sụt giảm 9,2% so với cùng kỳ, Quảng Nam có mức tăng trưởng thấp thứ 2 so với 63 tỉnh, thành phố trong cả nước (sau tỉnh Bắc Ninh).
THÀNH VÂN
11, Tháng 07, 2023 | 10:21

Nhàđầutư
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước tính 6 tháng đầu năm 2023 giảm 9,2% so với cùng kỳ. Với mức sụt giảm 9,2% so với cùng kỳ, Quảng Nam có mức tăng trưởng thấp thứ 2 so với 63 tỉnh, thành phố trong cả nước (sau tỉnh Bắc Ninh).

Sáng 11/7, HĐND tỉnh Quảng Nam khóa X đã khai mạc kỳ họp thứ 15.

Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, Chủ tịch HĐND tỉnh Phan Việt Cường cho biết, năm 2023 - năm thứ ba thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2026, trong bối cảnh cả nước nói chung và tỉnh ta nói riêng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, có những yếu tố chưa dự báo được như cạnh tranh chiến lược, xung đột Nga - Ukraine; giá nguyên liệu đầu vào, giá xăng dầu tăng cao... khiến chuỗi cung ứng đứt gãy, thị trường bị ảnh hưởng.

Song, với sự tập trung, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân trong tỉnh, kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục có những chuyển biến tích cực.

Cụ thể, có 13/15 chỉ tiêu dự kiến đạt và vượt kế hoạch Nghị quyết đề ra. Khu vực thương mại, dịch vụ đang dần được phục hồi và có tăng trưởng, tăng 3,2% so với cùng kỳ.

Nhiều hoạt động kích cầu du lịch được tổ chức, đã thu hút lượng lớn du khách đến tham quan và lưu trú, tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2022. Thu ngân sách nhà nước đạt 44% dự toán HĐND tỉnh giao, bằng 57% so với cùng kỳ; trong đó, một số ngành thu đạt và vượt như: thủy điện, bia và nước giải khát, du lịch...

Phan-Viet-Cuong

Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, Chủ tịch HĐND tỉnh Phan Việt Cường phát biểu khai mạc. Ảnh: T.V.

"Tuy nhiên, chúng ta thẳng thắn nhìn nhận rằng, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định: một số chỉ tiêu quan trọng chưa đạt theo kế hoạch đề ra; khu vực công nghiệp có sự sụt giảm mạnh 24,3%, kéo theo tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) giảm 9,2% so với cùng kỳ năm 2022; thu ngân sách chưa đạt so với dự toán giao; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công, vốn các Chương trình MTQG đạt thấp.

Cùng với đó, công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực: đất đai, môi trường, tài nguyên khoáng sản còn nhiều bất cập, chưa được xử lý, khắc phục; vấn đề tranh chấp, khiếu kiện, khiếu nại kéo dài liên quan đến đất đai vẫn còn xảy ra; việc tổ chức thi hành một số bản án hành chính của chính quyền các cấp còn chậm, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân", ông Cường nói.

Ông Cường đề nghị kỳ họp tập trung xem xét, thảo luận để quyết định nhiều nội dung quan trọng liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng.

Trong đó, HĐND tỉnh sẽ xem xét cho ý kiến, quyết định nhiều nội dung chuyên đề có ý nghĩa quan trọng, tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đảm bảo an sinh xã hội trong năm 2023 và giai đoạn 2022 - 2025 như: Xem xét thông qua kế hoạch đầu tư công năm 2024; Điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025; Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường tỉnh Quảng Nam… 

Le-Tri-Thanh

Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh. Ảnh: T.V.

Kinh tế gặp nhiều khó khăn

Báo cáo tại kỳ họp, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh cho biết, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước tính 6 tháng đầu năm 2023 giảm 9,2% so với cùng kỳ. Với mức sụt giảm 9,2% so với cùng kỳ, Quảng Nam có mức tăng trưởng thấp thứ 2 so với 63 tỉnh, thành phố trong cả nước (sau tỉnh Bắc Ninh); xếp vị thứ thấp nhất so với 5 tỉnh kinh tế trọng điểm miền Trung và 14 tỉnh Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ.

Đáng chú ý, hoạt động sản xuất công nghiệp chứng kiến sự sụt giảm mạnh, gồm các ngành sản xuất chủ lực như: dệt may, đồ gỗ, sản xuất và phân phối điện, sản xuất lắp ráp ô tô.

Nguyên nhân chính là do năng lực nội tại của các doanh nghiệp chưa phục hồi hoàn toàn, khó khăn về thị trường, việc thiếu hụt đơn hàng, chi phí sản xuất tăng cao, nguồn nguyên, vật liệu khan hiếm… đã tạo ra áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong việc duy trì sản xuất.

"Giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 giảm 24,3% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất trong những năm qua", ông Thanh cho hay.

Theo ông Thanh, ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, tổng lượt khách tham quan, lưu trú du lịch ước đạt 4.566 nghìn lượt khách, tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ; gồm: khách quốc tế ước đạt 2.091 nghìn lượt khách, khách nội địa ước đạt 2.475 nghìn lượt khách. Doanh thu du lịch ước đạt 4.600 tỷ đồng, tăng gấp 2,64 lần so với cùng kỳ; thu nhập xã hội từ du lịch ước đạt 10.810 tỷ đồng. 

cang-chu-lai

Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) Quảng Nam ước tính 6 tháng đầu năm 2023 giảm 9,2% so với cùng kỳ. Ảnh: T.V.

Theo Chủ tịch Quảng Nam, trong 6 tháng đầu năm, cả tỉnh có 613 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 53 doanh nghiệp so với cùng kỳ; số vốn đăng ký đạt gần 3.665 tỷ đồng, giảm 697 tỷ đồng. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 277 doanh nghiệp, giảm 158 doanh nghiệp.

Cũng trong thời điểm này, tỉnh đã cấp mới 1 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư 1 triệu USD, thu hồi 1 dự án. Theo đó, tổng số dự án FDI còn hiệu lực trên địa bàn tỉnh đến nay là 194 dự án với tổng vốn đầu tư 6,06 tỷ USD.

Đồng thời, cấp phép cho 7 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 1.412 tỷ đồng, tổng số dự án trong nước còn hiệu lực hơn 902 dự án với tổng vốn đầu tư gần 240 nghìn tỷ đồng.

"Các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị giảm sút; đặc biệt, các doanh nghiệp FDI gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì sản xuất, kinh doanh, nhiều nhà đầu tư có dự kiến nhu cầu mở rộng đầu tư nhưng phải điều chỉnh, hủy bỏ kế hoạch", ông Thanh thông tin.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ