Để Việt Nam thành nước phát triển năm 2045

Lịch sử thế giới cho thấy công nghiệp hóa (CNH) là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển của quốc gia. Tất cả các nước phát triển trên thế giới đều là những nước đã CNH thành công. Chính vì vậy, muốn Việt Nam trở thành nước phát triển vào năm 2045, thì đến năm đó chúng ta cũng phải CNH thành công.
TS. NGUYỄN SĨ DŨNG
02, Tháng 09, 2021 | 06:30

Lịch sử thế giới cho thấy công nghiệp hóa (CNH) là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển của quốc gia. Tất cả các nước phát triển trên thế giới đều là những nước đã CNH thành công. Chính vì vậy, muốn Việt Nam trở thành nước phát triển vào năm 2045, thì đến năm đó chúng ta cũng phải CNH thành công.

GiaHuy_41

 

Có ba câu hỏi phải được trả lời ở đây: Thể chế nào có thể giúp nước ta công nghiệp hóa thành công? Công nghiệp hóa cái gì? Công nghiệp hóa như thế nào?

Thể chế nào?

Thể chế nào, thể chế có thể được hiểu là cách thức tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước. Ở cách hiểu này, nhà nước có thể được phân chia thành nhà nước tập quyền và nhà nước phân quyền. Nhà nước phân quyền thì lại được phân chia thành cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị và cộng hòa tổng thống lưỡng tính.

Thể chế cũng có thể được hiểu là cách thức nhà nước vận hành nền kinh tế. Ở cách hiểu này, nhà nước có thể được phân chia thành nhà nước điều chỉnh, nhà nước của thị trường xã hội, nhà nước phúc lợi, nhà nước kế hoạch hóa tập trung và nhà nước kiến tạo phát triển. Nếu chúng ta muốn thúc đẩy kinh tế phát triển, thì cải cách thể chế mà chúng ta cần triển khai phải là những cải cách liên quan để thể chế ở cách hiểu thứ hai này. Vấn đề đặt ra là chúng ta sẽ lựa chọn mô hình nào trong năm mô hình nói trên để cải cách?

Thực tiễn cho thấy, có bốn mô hình thể chế giúp được nhiều nước nhất trên thế giới công nghiệp hóa thành công. Đó là mô hình nhà nước điều chỉnh (mô hình Anh - Mỹ), mô hình nhà nước của thị trường xã hội (Đức, Pháp và một số nước châu Âu), mô hình nhà nước phúc lợi (các nước Bắc Âu) và mô hình nhà nước kiến tạo phát triển (các nước Đông Bắc Á). Cũng có nhiều nước trên thế giới đã lựa chọn một trong bốn mô hình này, nhưng không thành công. Lý do có nhiều, nhưng cơ bản nhất là các nước đó đã không có được một nền tảng văn hóa tương đồng.

Các nước Mỹ, Úc, Canada, New Zealand… đều đã từng là thuộc địa của nước Anh và đều đã rất thành công khi áp dụng mô hình nhà nước điều chỉnh - mô hình thể chế của Anh, cho đất nước mình. Nhiều người cho rằng di sản lớn nhất của nước Anh là mô hình thể chế của nước này. Các nước cựu thuộc địa của Anh đã được tận hưởng được mô hình thể chế của Anh nên đều rất phát triển. Tuy nhiên, nếu nhận xét nói trên đúng cho Mỹ, Úc, Canada, New Zealand thì có vẻ lại không hoàn toàn đúng cho Ấn Độ, Pakistan và nhiều nước châu Á, châu Phi khác.

Tại sao mô hình thể chế của nước Anh lại chỉ phát huy tác dụng ở một số nước, còn ở một số nước khác thì không? Câu trả lời nằm ở nền tảng văn hóa của các nước. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, các nước Mỹ, Úc, Canada, New Zealand có nền tảng văn hóa tương đồng với nước Anh. Trong khi đó, Ấn Độ, Pakistan và các nước cựu thuộc địa khác có một nền tảng văn hóa rất khác. Chính vì thế mô hình thể chế của nước Anh ít phát huy tác dụng ở các nước này.

Tương tự cũng là điều chúng ta có thể nói về mô hình thể chế của nhà nước phúc lợi. Các nhà nước phúc lợi Bắc Âu (Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy...) là mô hình thể chế có thể được coi là thịnh vượng và tốt đẹp nhất đang tồn tại trên thế giới hiện nay. Ở các nước này, người dân sinh ra đã được nhà nước chăm lo đầy đủ về mọi mặt. Cuộc sống của họ hết sức an toàn, đầy đủ và hạnh phúc. Thế nhưng tại sao một mô hình thể chế tốt đẹp lại không thể nhân rộng ra được ngoài vùng Bắc Âu? Lý do là vì thiếu nền tảng văn hóa của Bắc Âu thì không thể vận hành được một mô hình như vậy. “Biết thế nào là đủ” là một nét văn hóa rất đặc biệt của những người dân Bắc Âu. Những người dân này sẵn sàng đóng thuế cho nhà nước đến 70-75% thu nhập của mình mà không hề tâm tư, suy bì. Bất cứ ở một nơi nào khác trên thế giới, mức thuế như trên sẽ triệt tiêu động lực làm việc, còn ở các nước Bắc Âu thì lại không. Ví dụ từ các nước Bắc Âu một lần nữa khẳng định nền tảng văn hóa là rất quan trọng để một mô hình thể chế có thể thành công.

Vấn đề đặt ra là nền tảng văn hóa của Việt Nam phù hợp với mô hình thể chế nào?

Về mặt vị trí địa lý, Việt Nam thuộc về nhóm các nước Đông Nam Á. Tuy nhiên, về mặt văn hóa, chúng ta lại thuộc về các nước Đông Bắc Á (Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên). Ăn cơm bằng đũa, viết chữ tượng hình (Việt Nam đã từng có chữ nôm là chữ tượng hình) chỉ là một vài biểu hiện bên ngoài của văn hóa Đông Bắc Á. Cái nằm sâu bên trong ảnh hưởng đến cách nghĩ, cách hành xử của cư dân ở vùng này là tinh thần và tư tưởng Nho giáo. Một số trong những đặc điểm nổi bật của các nước này là truyền thống khoa bảng và tính liêm sỉ rất cao của quan chức hành chính. Học hành, thi cử để làm quan là con đường phấn đấu được coi trọng nhất. Đây cũng là nền tảng để nhà nước có thể tuyển dụng được những người thật sự tài giỏi cho nền quản trị công.

Mô hình thể chế được hầu hết các nước Đông Bắc Á lựa chọn là nhà nước kiến tạo phát triển (developmental state). Mô hình thể chế này đã đưa lại sự phát triển kỳ điệu cho cả Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore (Singapore ở Đông Nam Á, nhưng lại có văn hóa Đông Bắc Á) và gần đây là cả Trung Quốc. Sự thành công của các nước này cho thấy mô hình nhà nước kiến tạo phát triển rất phù hợp với nền tảng văn hóa của các nước Đông Bắc Á. Mà như vậy thì mô hình này có thể phù hợp cho Việt Nam.

Khái niệm “nhà nước kiến tạo phát triển” được nhà nghiên cứu Chalmers Johnson đưa ra từ những năm tám mươi của thế kỷ trước khi ông nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Ông nhận thấy rằng, trong sự phát triển thần kỳ ấy có vai trò rất quan trọng của nhà nước. Nhà nước Nhật Bản đã không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển, mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó. Sau này, ngoài Nhật Bản ra, thì Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Trung Quốc đều được xem là những nhà nước kiến tạo phát triển.

Đặc trưng hết sức cơ bản của mô hình nhà nước này là nhà nước trực tiếp đề ra một kế hoạch phát triển công nghiệp (với những tham vọng lớn) và đầu tư mạnh mẽ về cơ chế, chính sách và nhiều khuyến khích khác để thúc đẩy công nghiệp phát triển. Có thể nói trong mô hình này, sự phát triển kinh tế do nhà nước dẫn dắt, chứ không phải do thị trường. Theo các nhà nghiên cứu, đây là mô hình nhà nước nằm ở giữa mô hình nhà nước điều chỉnh Anh - Mỹ (theo chủ thuyết thị trường tự do) và nhà nước kế hoạch hóa tập trung (theo mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống). Nhà nước kiến tạo phát triển không đứng ngoài thị trường, không làm thay thị trường, mà chủ động can thiệp mạnh mẽ vào thị trường để thúc đẩy phát triển và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đã được đề ra.

Những nét đặc trưng của nhà nước kiến tạo phát triển được tác giả Chalmers Johnson đưa ra là:

Một bộ máy hành chính gọn nhẹ, nhưng tinh hoa và hiệu quả; Bộ máy hành chính được trao quyền đầy đủ để đưa ra những sáng kiến và vận hành hiệu quả; Nhà nước thông qua các thiết chế tài chính và các hướng dẫn hành chính để can thiệp vào thị trường; Có Bộ thương mại quốc tế và công nghiệp như một thiết chế mạnh điều phối chính sách phát triển công nghiệp.

Nhiều người cho rằng, nhà nước kiến tạo phát triển là mô hình nhà nước kết hợp được ưu điểm, đồng thời khắc phục được nhược điểm của cả hai mô hình nhà nước điều chỉnh và nhà nước kế hoạch hóa tập trung.

Do là một nước có nền tảng văn hóa của Đông Bắc Á, mô hình nhà nước kiến tạo phát triển có thể là tối ưu cho Việt Nam. Hơn thế nữa, lựa chọn mô hình nhà nước điều chỉnh kiểu Anh - Mỹ là rất rủi ro. Trước hết, văn hóa của chúng ta khác. Không có thói quen tận dụng quyền tự do cá nhân, Nhà nước có tạo cơ hội thuận lợi đến mấy, nhiều người Việt cũng khó lòng nắm bắt được. Thêm vào đó, do hoàn cảnh lịch sử, các doanh nghiệp của nước ta, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, mới chỉ được hình thành trong thời kỳ đổi mới. Về cơ bản, các doanh nghiệp đều rất non trẻ và khá hạn chế về tiềm lực mọi mặt. Bắt các doanh nghiệp này phải cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp FDI chưa chắc đã là một sự công bằng. Mà như vậy, thì lựa chọn mô hình nhà nước điều chỉnh, chúng ta sẽ khó lòng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Thật ra, kể từ Đại hội VI của Đảng, chúng ta đã thật sự từ bỏ mô hình nhà nước kế hoạch hóa tập trung, mà đi theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối công nghiệp hóa đất nước, đã công nhận cơ chế thị trường, nhưng vẫn coi trọng vai trò quản lý của Nhà nước. Như vậy tất cả các phần cấu thành quan trọng của một nhà nước kiến tạo phát triển đều đã được khẳng định trong đường lối phát triển của chúng ta. Có lẽ, chính vì thế, kinh tế nước ta đã có sự phát triển khá ngoạn mục trong thời gian vừa qua.

Tuy nhiên, vấn đề là tại sao đất nước ta vẫn chưa trở thành “hổ”, thành “rồng’ như các nước Đông Bắc Á? Nguyên nhân có nhiều, nhưng cơ bản nhất là chúng ta đã không thúc đẩy phát triển công nghiệp thông qua các công ty, các tập đoàn tư nhân như ở Nhật Bản và Hàn Quốc, mà lại thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Một nguyên nhân cơ bản khác nữa, là chúng ta cũng đã không có được một bộ máy hành chính, công vụ chuyên nghiệp và tài giỏi để hiện thực hóa chương trình công nghiệp hóa. Có lẽ đây là những khiếm khuyết mà chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực cải cách để khắc phục. Đồng thời phải kiên trì mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.

Công nghiệp hóa cái gì?

Thành tựu của Tập đoàn sơn Kova có thể gợi mở rất nhiều điều. Những phát minh được sử dụng để sản xuất sơn nano ở đây đã tạo ra những sản phẩm vô cùng ấn tượng. Sơn chống cháy có thể chịu được nhiệt độ lên đến 1.000 độ C. Sơn tự làm sạch khiến sau nhiều năm, vỉa hè, tường nhà vẫn mới. Sơn chống khuẩn có thể tiêu diệt gần hết các loại khuẩn. Sơn chống đạn thì đạn bắn không thủng. Các loại sơn này đã được 7 nước trên thế giới đặt mua. Trong đó nước mua nhiều nhất cho các tòa nhà cao tầng và bệnh viện của mình là Singapore. Sơn nano với các tính năng đặc biệt nói trên do Giáo sư Nguyễn Thị Hòe phát minh. Đây là loại sơn được chế tạo bằng nano chiết xuất từ vỏ trấu và sử dụng dung môi chủ yếu là nước lã nên thân thiện với môi trường, tiêu biểu cho kinh tế xanh.

Ví dụ nói trên cho thấy, các phát minh đột phá về công nghệ của người Việt có thể làm nên sự khác biệt và giúp tạo ra lợi thế cạnh tranh. Trong cả nước, chúng ta còn có bao nhiêu phát minh mang tính đột phá như vậy? Công nghiệp hóa trước hết là phải dựa trên cơ sở của những phát minh đột phá. Vấn đề là chúng ta cần phải điều tra để nhận biết chính xác những phát minh đột phá chúng ta đang có là bao nhiêu và đang được lưu giữ ở đâu. Hơn nửa thế kỷ đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ, những phát minh đột phá như vậy chắc chắn là không ít.

Chúng ta cũng có thể công nghiệp hóa bằng cách đón đầu làn sóng công nghệ mới như hãng ô tô VinFast của Tập đoàn Vingroup đang làm. Trong trường hợp này, bên cạnh nguồn vốn lớn, hợp tác với các tập đoàn công nghệ hàng đầu trên thế giới và thu hút những nhân tài Việt trên toàn cầu là rất quan trọng.

Công nghiệp hóa như thế nào?

Có lẽ, trước hết, chúng ta nên tổng kết lại chương trình công nghiệp hóa trong thời gian vừa qua để rút ra các bài học cần thiết. Tiếp theo, Chính phủ cần tập hợp những doanh nhân tài giỏi của đất nước để bàn thảo xem với những phát minh đột phá mà chúng ta đang có thì có thể phát triển ngành công nghiệp gì và hiện thực hóa điều đó như thế nào.

Đây cũng chính là cách mà các nhà nước kiến tạo phát triển ở Đông Bắc Á như Nhật Bản và Hàn Quốc đã từng làm. Điểm khác biệt là họ đã công nghiệp hóa thành công trước khi bị ràng buộc chặt chẽ hơn bởi các hiệp định thương mại tự do.

Chúng ta sẽ không có được điều kiện thuận lợi như vậy để can thiệp vào thị trường nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa. Thế nên, chúng ta cần sự tham gia của các nhà đàm phán (đã đàm phán các hiệp định tự do thương mại như CPTPP, EVFTA, RCEP…) vào quá trình bàn thảo nói trên.

Với sự hiểu biết của mình, các nhà đàm phán sẽ tư vấn cho Chính phủ về việc chèo lái như thế nào để với những quy định của các hiệp định thương mại tự do vẫn có thể trợ giúp các doanh nghiệp trong nước và thúc đẩy công nghiệp hóa thành công.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26777.00 26885.00 28090.00
GBP 31177.00 31365.00 32350.00
HKD 3185.00 3198.00 3304.00
CHF 27495.00 27605.00 28476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16468.00 16534.00 17043.00
SGD 18463.00 18537.00 19095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18207.00 18280.00 18826.00
NZD 0000000 15007.00 15516.00
KRW 0000000 17.91 19.60
       
       
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ