'Chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài cần hợp lý, thích hợp với từng dự án, từng địa phương'

Nhàđầutư
"Từ thực tiễn thu hút FDI, cần thay đổi tư duy và hành động để đề ra chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý, thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư thích hợp với từng dự án, từng địa phương và từng giai đoạn phát triển,...", GS.TSKH Nguyễn Mại cho hay.
GS.TSKH NGUYỄN MẠI
26, Tháng 11, 2019 | 09:53

Nhàđầutư
"Từ thực tiễn thu hút FDI, cần thay đổi tư duy và hành động để đề ra chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý, thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư thích hợp với từng dự án, từng địa phương và từng giai đoạn phát triển,...", GS.TSKH Nguyễn Mại cho hay.

gs-nguyen-mai

Theo GS.TSKH Nguyễn Mại, chính sách FDI là bộ phận cấu thành chính sách phát triển kinh tế-xã hội quốc gia, tạo ra lợi thế cạnh tranh với các nước khác trong thu hút vốn đầu tư quốc tế.

Tại Diễn đàn“Chính sách Tài khóa và Phát triển Việt Nam 2019” ngày 13/1, chuyên gia về chính sách thuế của Oxfam (tổ chức phi chính phủ hoạt động trong các lĩnh vực phát triển nông thôn, giảm thiểu rủi ro, ứng phó với biến đổi khí hậu và thảm họa, phát triển xã hội dân sự và cộng đồng thiểu số) Johan Langerock khuyến nghị: Việt Nam nên bỏ bớt các chính sách ưu đãi thuế vì ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam làm thất thoát khoảng 50.000 tỷ đồng mỗi năm, số tiền đủ để xây mới 25 bệnh viện 1.000 giường, giảm khoảng 1% GDP. Ông khẳng định: "Việt Nam có thể loại bỏ các ưu đãi thuế mà không làm tổn hại đến tăng trưởng hoặc khả năng cạnh tranh của quốc gia".

Đây là vấn đề quan trọng cần được nghiên cứu để hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện định hướng mới của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 50.

Chính sách FDI là bộ phận cấu thành chính sách phát triển kinh tế-xã hội quốc gia, tạo ra lợi thế cạnh tranh với các nước khác trong thu hút vốn đầu tư quốc tế.

Chính sách FDI bao gồm chính sách tài chính và khuyến khích tài chính, chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất và bảo lãnh ngoại tệ, bảo lãnh vốn vay, chính sách cơ cấu (ngành và lĩnh vực, địa bàn đầu tư), chính sách thị trường và đối tác, chính sách lao động, chính sách đất đai, chính sách công nghệ.... Ưu đãi thuế là một bộ phận của chính sách FDI cần đặt trong mối quan hệ với định hướng và tổng thể chính sách FDI.

Chính sách ưu đãi của quốc gia mở cửa thu hút FDI khác với nước thu hút FDI có giới hạn. Do đó khi nghiên cứu chính sách ưu đãi của Việt Nam cần lưu ý rằng, từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài ngày 29/12/1987 thì chủ trương nhất quán của Nhà nước là hội nhập quốc tế, mở cửa thu hút FDI, do đó tùy theo từng giai đoạn phát triển với định hướng mới thì chính sách ưu đãi cũng được điều chỉnh cho phù hợp.

Chính sách ưu đãi tài chính bao gồm chính sách thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm mức thuế ưu đãi và thời gian miễn giảm kể từ khi doanh nghiệp có lợi nhuận, khấu trừ chi phí hợp lý vào thu nhập chịu thuế, chuyển lỗ sang các năm tiếp theo, khấu hao nhanh, hoàn trả thuế lợi tức đối với thu nhập tái đầu tư, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân và các chính sách ngoài thuế như hổ trợ tài chính. 

Tùy theo cách tiếp cận khác nhau nên có các nhận định không giống nhau về chính sách ưu đãi tài chính, trong đó có chính sách ưu đãi thuế.

Con số 50.000 tỷ đồng mà Ông Johan Langerock tính toán thuộc về cách tiếp cận theo hướng giả định đã thu hút được một lượng vốn FDI như Việt Nam đã đạt được thì việc giảm bớt các ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp FDI,  ngân sách nhà nước thu được thêm khoảng 1% GDP/năm.

Chúng tôi cho rằng, cách tiếp cận như vậy không phù hợp với thực tiễn Việt Nam hơn 30 năm thu hút vốn đầu tư quốc tế; bởi vì để có được tốc độ tăng trưởng bình quân GDP/năm khoảng 7% trong ba thập niên thì cùng với khai thác tiềm năng vốn đầu tư trong nước, phải thu hút được hơn 220 tỷ USD vốn FDI thực hiện; do vậy nếu không có môi trường đầu tư hấp dẫn với chính sách ưu đãi thỏa đáng thì làm gì có được GDP năm 2018 (theo giá hiện hành) đạt 5.535,3 nghìn tỷ đồng, gấp 2 lần GDP năm 2011và GDP/người đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587 USD.

Bình Dương là một trong 14 tỉnh, thành phố đạt được kết quả nổi trội trong thu hút FDI, do đó đã có cơ cấu kinh tế hiện đại, GDP/người năm 2018 đạt 5680 USD, gấp đôi mức của cả nước. Do nhu cầu lao động gia tăng nhanh chóng nên Bình Dương có tốc độ tăng dân số cơ học cao nhất cả nước; năm 2000 dân số là 779 000 người thì năm 2005 là 1189 300 ngời, năm 2010 là 1619 900 người và năm 2018 là 2 486 531 người.

Bình Dương luôn nằm trong tốp đầu các địa phương thu hút FDI nên tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm trên 14,5%, giá trị sản lượng của các ngành kinh tế gia tăng nhanh chóng, cơ cấu kinh tế biến đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện nay đã trở thành tỉnh công nghiệp.

Một số chỉ tiêu kinh tế của Bình Dương 1997 và 2018

   

1997

2018

Dân số

Người

679 006

2 013 894

GRDP

Tỷ đồng

3 919

282 999

GRDP/người

Triệu đồng

5,8

130,8

Giá trị SLCN

Tỷ đồng

4 000

50 000

Tổng mức bán lẻ hàng hóa & dịch vụ

Tỷ đồng

3 042

143 318

Kim ngạch xuất khẩu

Triệu USD

363

24 320

Thu ngân sách

Tỷ đồng

817

52 000

Cơ cấu kinh tế

     

Công nghiệp và xây dựng

 

50,4

63,87

Dịch vụ

 

26,8

    23,94

Nông lâm ngư nghiệp

 

22,8

      2,19

Bình Dương đang tiến hành xây dựng đô thị thông minh với quy hoạch kiến trúc hiện đại, có nhiều trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, bệnh viện, khu vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu của dân cư địa phương, du khách trong nước và quốc tế.

Bình Dương là địa phương đầu tiên của Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Cộng đồng thông minh thế giới (ICF). Qua đó, góp phần giới thiệu hình ảnh, nâng cao vị thế của tỉnh, tạo điều kiện giao lưu, hợp tác kinh tế, đặc biệt là thu hút đầu tư và xây dựng thành phố thông minh trong thời gian tới.

Sự biến đổi nhanh chóng của Bình Dương là do lãnh đạo tỉnh đã vận dụng sáng tạo chủ trương đổi mới và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, thực hiện chính sách ưu đãi đúng đối tượng và dự án FDI, tạo tiền đề để Bình Dương thực hiện thành công chuyển đổi sang nền kinh tế số, chính phủ điện tử theo hướng tăng trưởng với tốc độ cao và bền vững.

Mặc dù không đồng tình với cách tiếp cận của Ông Johan Langerock nhưng khuyến nghị của ông đối với Việt Nam về chính sách ưu đãi đối với FDI cần được các bộ, chính quyền địa phương và Ban quản lý KCN,KCX, KKT lưu ý; bởi vì đã có một số địa phương do muốn có dự án FDI nên đã cho nhà đầu tư hưởng mức ưu đãi vượt quá khung khổ quy định của luật pháp; thậm chí do cạnh tranh với tỉnh lân cận nên đã không tính toán cẩn thận khi phê duyệt dự án FDI nên làm giảm thu ngân sách địa phương, gây thiệt hại lợi ích quốc gia.

Hai ví dụ điển hình về tình trạng lạm dụng chính sách ưu đãi đối với FDI: 1) Một tỉnh Bắc Trung bộ đã thu hút được dự án quy mô lớn hàng tỷ USD, có diện tích đất liền và mặt nước 2 400 ha. Theo quy định của luật đất đai thì nhà đầu tư phải nộp tiền thuê đất cho tỉnh để trang trải tiền đền bù, giải phóng mặt bằng, nhưng do không tham vấn các chuyên gia kinh tế nên tỉnh đã định tiền thuê đất trong 50 năm quá thấp, trái luật pháp, không đủ chi trả để di dời dân, buộc phải tạm ứng nhà đầu tư 30 triệu USD để giải phóng mặt bằng, trừ vào thuế thu nhập doanh nghiệp khi họ phải đóng thuế.

2) Một tỉnh Nam Trung bộ tiếp nhận dự án lọc hóa dầu quy mô rất lớn, vốn đầu tư 22 tỷ USD, cần diện tích 4- 5000 ha; mặc dù ngay từ đầu một số chuyên gia kinh tế đã cảnh báo về  hiệu quả kinh tế- xã hội rất thấp của dự án này nhưng lãnh dạo tỉnh vẩn thành lập Khu Kinh tế, tiến hành giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỷ thuật tốn khá nhiều tiền của và công sức; cải kết cuối cùng là dự án đầu tư không được thực hiện, Khu Kinh tế chuyển mục đích thành Khu đô thị, gây lãng phí lớn.

Từ thực tiễn thu hút FDI, cần thay đổi tư duy và hành động để đề ra chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý, thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư thích hợp với từng dự án, từng địa phương và từng giai đoạn phát triển vừa khuyến khích thu hút FDI, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia và lợi ích địa phương.

Ông Johan Langerock nhận xét, đây không chỉ là vấn đề ở cấp độ quốc gia như Việt Nam mà hiện có một cuộc đua xuống đáy khốc liệt về các sắc thuế cho doanh nghiệp trong khối ASEAN.

"Các công ty trong ASEAN đã và đang trả mức thuế suất ngày càng thấp trong thập kỉ qua. Trong môi trường kinh doanh như vậy, các công ty lớn với cổ đông giàu có ngày càng hưởng nhiều lợi ích, trong khi các dịch vụ công thiết yếu cho người dân thường chưa được đầu tư phát triển đúng mức".  Oxfam khuyến nghị, với vai trò chủ tịch ASEAN năm 2020 Việt Nam nên đưa vào chương trình nghị sự của ASEAN vấn đề về cạnh tranh thuế và ưu đãi thuế nhằm nâng cao nhận thức và khởi xướng các thảo luận cấp khu vực.

Khuyến nghị của ông Johan Langerock cần được Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu trình Chính phủ để các nước thành viên cộng đồng ASEAN cùng giải quyết vì lợi ích quốc gia và lợi ích cộng đồng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ