Đổi mới thu hút đầu tư nước ngoài - Bài cuối: ‘Tập trung lựa chọn, thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao’

Nhàđầutư
Đó là khẳng định của Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng. Theo Bộ trưởng, cần sớm hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chất lượng cao cho giai đoạn phát triển mới.
NHÓM PV
30, Tháng 09, 2019 | 07:56

Nhàđầutư
Đó là khẳng định của Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng. Theo Bộ trưởng, cần sớm hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chất lượng cao cho giai đoạn phát triển mới.

6750416D-68D7-44F5-99BD-6EA71882C956

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng (giữa) và các đối tác nước ngoài (Ảnh: Phong Cầm)

Hành trình sau hơn 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam cũng gần như song trùng với hơn 3 thập kỷ Đổi mới của nền kinh tế. Dù vẫn còn những phân vân giữa được và mất, song mở cửa thu hút FDI chính là một trong những quyết định sáng suốt nhất để Việt Nam từ một nước nghèo, lạc hậu trở thành một trong những điểm sáng của kinh tế toàn cầu, Bộ trưởng đánh giá thế nào về những kết quả mà chúng ta đã đạt được?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Có thể nói trong 30 năm qua, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đồng hành cùng công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế của đất nước, tạo động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Từ chỗ còn xa lạ và mới mẻ, khu vực FDI đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế.

Nếu không có FDI, nền kinh tế Việt Nam không thể có một diện mạo, quy mô và trình độ phát triển như ngày nay. Trong 30 năm qua, hơn 169 tỷ USD vốn FDI đã chảy vào Việt Nam, được triển khai thực hiện trong hầu hết các ngành nghề và lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành những ngành công nghiệp chủ lực như viễn thông, dầu khí, điện tử, hóa chất, thép, ô tô – xe máy, công nghệ thông tin, da giày, dệt may, chế biến nông sản thực phẩm…

Qua đó, FDI đã góp phần hết sức quan trọng trong việc gia tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Đến nay, khu vực FDI chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Ngoài ra, FDI cũng đã góp phần tăng thu ngân sách, giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Bên cạnh những kết quả, đóng góp tích cực, quá trình thu hút FDI cũng đã bộc lộ những mặt hạn chế, tiêu cực cần sớm được khắc phục. Đó là sự liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước còn lỏng lẻo, tỷ lệ nội địa hóa thấp, nhất là đối với ngành công nghiệp ô tô, điện tử; số dự án công nghệ cao do các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư còn ít, một số dự án gây ô nhiễm môi trường, trong đó có những sự cố môi trường nghiêm trọng như trường hợp của Formosa Hà Tĩnh, Vedan Đồng Nai; việc sử dụng tài nguyên, nhất là đất đai còn lãng phí; tại một số dự án đã và đang xảy ra hiện tượng chuyển giá, làm thất thu thuế…

Về cơ cấu đầu tư, FDI vào lĩnh vực nông nghiệp và kết cấu hạ tầng của nền kinh tế còn rất ít, đầu tư từ các nước phát triển như Hoa Kỳ và EU vào Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng.

Theo Bộ trưởng, chúng ta sẽ phải làm gì để hạn chế những mặt tiêu cực của FDI như Bộ trưởng vừa nêu ở trên?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Cần tổng kết, phân tích sâu về những mặt được và chưa được của FDI, từ đó đề ra định hướng và giải pháp cho thời gian tới. Trên cơ sở đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo về việc tổng kết 30 năm đầu tư nước ngoài. Đến nay hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã tiến hành đánh giá 30 năm thu hút FDI của ngành và địa phương mình.

Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ phối hợp với các đơn vị trong Bộ và với Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tổ chức một số cuộc hội thảo chuyên đề nhằm đánh giá sâu những vấn đề đặt ra đối với FDI; tiến hành khảo sát thực tế một số địa phương, khu công nghiệp, khu công nghệ cao để có thêm thông tin và cơ sở đánh giá những mặt tích cực, hạn chế của FDI và nguyên nhân. Với sự hỗ trợ kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới và IFC, Cục Đầu tư nước ngoài cũng đang xây dựng chiến lược thu hút FDI. Trong năm 2018 cũng đã tổ chức hội nghị toàn quốc về 30 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Tôi tin rằng, với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương và Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, chúng ta sẽ đánh giá đúng những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân và xác định đúng định hướng thu hút FDI cho giai đoạn phát triển mới.

Theo Bộ trưởng, thời gian tới chúng ta cần thu hút FDI vào những lĩnh vực nào?

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Đã đến lúc chúng ta cần hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh để lựa chọn, thu hút các dự án FDI chất lượng cao, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như những biến đổi của khoa học công nghệ trong cuộc cách mạng 4.0 và xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư quốc tế.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, sẽ xác định những lĩnh vực, ngành nghề và đối tác cần ưu tiên thu hút FDI. Tuy nhiên, quan điểm của cá nhân tôi là chúng ta phải tập trung ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao của các tập đoàn xuyên quốc gia trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, nông nghiệp hiệu quả cao, công nghệ thông tin và các lĩnh vực dịch vụ mà Việt Nam có tiềm năng và lợi thế so sánh.

Đó cũng phải là các dự án thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, low-carbon và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta cũng sẽ ưu tiên thu hút các dự án có sức lan tỏa, gắn kết với khu vực doanh nghiệp trong nước.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Ông Võ Hồng Phúc - nguyên Bộ trưởng KH&ĐT: "Đầu tư nước ngoài đã đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam"

Tôi có may mắn được làm việc ở Bộ KH&ĐT khá lâu nên đã có nhiều điều kiện để theo dõi hoạt động đầu tư nước ngoài ngay từ đầu khi chúng ta ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1987 cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ Bộ trưởng. Lúc đầu, chưa có cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài riêng nên Bộ Kinh tế đối ngoại theo dõi đầu tư nước ngoài. Phải đến khi thành lập Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) vào tháng 3/1989 thì cơ quan này là đầu mối quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài. Thời kỳ đầu, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chưa nhiều,mãi tới những năm 90 mới tăng lên đáng kể. Trong thời kỳ Mỹ cấm vận không ai muốn vào Việt Nam. Có một số ít nhà đầu tư Singapore, Đài Loan, Hồng Kông quan tâm còn những nhà đầu tư lớn thì họ không vào, nếu có thì phải thông qua công ty được lập tại nước khác.

Từ thập kỷ 90, đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Nói về cái được của đầu tư nước ngoài, tôi muốn nhấn mạnh đến thứ nhất là kinh nghiệm quản lý và công nghệ. Thứ hai là nguồn vốn đầu tư và gia tăng năng lực sản xuất, xuất khẩu. Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã góp phần đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ doanh nghiệp, công nhân kỹ thuật. Thứ tư là đóng góp vào nguồn thu ngân sách cũng như góp phần cân bằng cán cân thương mại. Từ những đóp góp nói trên, đầu tư nước ngoài đã trở thành một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Ông Bùi Quang Vinh - nguyên Bộ trưởng KH&ĐT: "Phải có cơ chế đủ mạnh để các doanh nghiệp FDI thực hiện tỷ lệ nội địa hóa"

Theo cá nhân tôi, thành quả lớn nhất mà chúng ta đạt được chính là sự thay đổi nhận thức. Điều này tưởng đơn giản nhưng nó lại là khâu đột phá về quan điểm, tư tưởng. Hãy nhớ rằng, trước đó, nền kinh tế nước ta khép kín, thành phần kinh tế chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể. Đảng ta đã nhận ra rằng trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới, không thể không mở cửa và từ đó chúng ta đã xây dựng nhiều hệ thống văn bản pháp luật cho quá trình hội nhập kinh tế trong đó có Luật Đầu tư nước ngoài mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới của đất nước. Một nền kinh tế mở bao gồm nhiều thành phần kinh tế trong đó có doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thực tế đã chứng minh đó là một quyết sách sáng suốt, đúng đắn.

Sau hơn 30 năm, chúng ta đã thu hút được một lượng vốn đầu tư nước ngoài rất lớn, kèm với đó là những kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp hiện đại, mở rộng thị trường, tiếp thu công nghệ mới, tạo việc làm, nâng cao kim ngạch xuất khẩu và tạo sự cạnh tranh để phát triển giữa các doanh nghiệp.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ