Xuất khẩu của khu vực FDI vẫn chiếm ưu thế và sẽ khả quan dịp cuối năm

Nhàđầutư
Xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước đạt 8,43 tỉ USD trong tháng 8 năm 2023 (tăng 8,7% so với tháng trước), trong khi xuất khẩu của khu vực FDI, bao gồm cả dầu thô, đạt 23,94 tỉ USD (tăng 7,3%).
TRỌNG HIẾU
10, Tháng 09, 2023 | 07:58

Nhàđầutư
Xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước đạt 8,43 tỉ USD trong tháng 8 năm 2023 (tăng 8,7% so với tháng trước), trong khi xuất khẩu của khu vực FDI, bao gồm cả dầu thô, đạt 23,94 tỉ USD (tăng 7,3%).

Trả lời câu hỏi của phóng viên tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 8 vào ngày 9/9, Thứ trưởng Bộ Công Thương, ông Đỗ Thắng Hải, cho biết theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 8 năm 2023 đạt 32,37 tỉ USD, tăng 7,7% so với tháng 7.

Thứ trưởng nhấn mạnh, đây là tháng thứ 4 liên tiếp xuất khẩu tăng trưởng, đặc biệt là tăng trưởng trong tháng 8 cao hơn so với tháng trước (tăng 4,3% so với tháng 4, tăng 4,5% so với tháng 5, tăng 0,8% so với tháng 6, và tăng 7,7% so với tháng trước).

Empty

Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải phát biểu tại họp báo. Ảnh: Trọng Hiếu

Về mặt hàng xuất khẩu, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải đề cập đến một số mặt hàng ghi nhận sự tăng trưởng cao trong tháng 8 năm 2023, bao gồm máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại, linh kiện điện thoại, dệt may, giày dép, gỗ và các sản phẩm liên quan đến gỗ.

Theo đại diện Bộ Công Thương, xuất khẩu trong khu vực kinh tế trong nước đạt 8,43 tỉ USD trong tháng 8 năm 2023 (tăng 8,7% so với tháng trước), trong khi xuất khẩu trong khu vực FDI, bao gồm cả dầu thô, đạt 23,94 tỉ USD (tăng 7,3%). Xuất khẩu trong tháng 8 cũng đã giúp cán cân thương mại Việt Nam sau 8 tháng đầu năm 2023 có thặng dư 20,2 tỉ USD.

Thứ trưởng Hải lý giải, xuất khẩu đã phục hồi nhờ vào các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ và Bộ Công Thương, cũng như sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp. Từ tháng 4 đến nay, đặc biệt là trong tháng 8 vừa qua, nhu cầu từ các thị trường đã tăng trở lại.

Thứ trưởng cũng cho biết, trong thời gian tới, mặc dù đã có nhiều tín hiệu tích cực, nhưng dự báo kinh tế thế giới vẫn còn nhiều yếu tố khó lường. Mặc dù lạm phát đã giảm, nhưng vẫn ở mức cao ở nhiều quốc gia; tình hình địa chính trị vẫn phức tạp và ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu cũng như giá nguyên vật liệu đầu vào.

"Hy vọng từ nay đến cuối năm, xuất khẩu có thể tiếp tục phục hồi khi các doanh nghiệp Việt Nam có sức chống chịu tốt, cũng như rất linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất chủ động trong việc tìm kiếm các thị trường mới, phát huy tốt các hiệp định thương mại thế hệ mới", ông Hải cho biết.

Đáng chú ý, theo báo cáo từ các địa phương có doanh nghiệp FDI cho biết dự báo xu hướng xuất khẩu tốt hơn. Đặc biệt là các sản phẩm mới để xuất khẩu cho mùa cuối năm như Samsung với các mẫu điện thoại mới.

"Căn cứ vào các kết quả nêu trên thì mục tiêu tăng trưởng 6% kim ngạch xuất khẩu như kế hoạch đặt từ cuối năm 2022 dù khó khăn nhưng với sự chủ động của Chính phủ, bộ ngành, địa phương cũng như doanh nghiệp, chúng tôi rất tin tưởng vào kết quả khả quan từ nay đến cuối năm", Thứ trưởng Bộ Công Thương nói thêm.

Về giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp, Thứ trưởng Hải cho rằng cần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giảm chi phí cho doanh nghiệp giúp các doanh nghiệp có thêm động lực xuất khẩu.

Bộ Công Thương sẽ phối hợp chặt chẽ với các địa phương, bộ, ngành, đại diện cơ quan tại nước ngoài để đẩy mạnh công tác phát triển thị trường, xúc tiến thương mại… đặc biệt tại các nước có kim ngạch xuất khẩu lớn. Cùng với đó là hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng những lợi thế trong các hiệp định thương mại.

Trước đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2022 của Việt Nam ước đạt 732 tỉ USD. Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam vượt mốc 700 tỉ USD, đưa Việt Nam vào nhóm các nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ