VN-Index tăng ‘đẹp’ phiên cuối năm

Nhàđầutư
Dù có phần hạ nhiệt và VN-Index không thể giữ được mốc điểm cao nhất, song đây vẫn có thể coi là dấu chấm đẹp khép lại năm Tân Sửu nhiều thành công của TTCK và hướng đến một năm Nhâm Dần với nhiều triển vọng.
TẢ PHÙ
28, Tháng 01, 2022 | 17:03

Nhàđầutư
Dù có phần hạ nhiệt và VN-Index không thể giữ được mốc điểm cao nhất, song đây vẫn có thể coi là dấu chấm đẹp khép lại năm Tân Sửu nhiều thành công của TTCK và hướng đến một năm Nhâm Dần với nhiều triển vọng.

Chung khoan Co phieu 8

Ảnh: Trọng Hiếu.

Diễn biến chủ đạo chung hôm nay là rung lắc, VN-Index đã ít nhất là 2 lần “nhúng đỏ” trong phiên giao dịch. Tuy nhiên, lực cầu dâng cao ở các nhóm cổ phiếu chủ lực đã kéo thị trường bứt phá.

Dù có phần hạ nhiệt và VN-Index không thể giữ được mốc điểm cao nhất ngày hôm nay, song đây vẫn có thể coi là dấu chấm đẹp khép lại năm Tân Sửu nhiều thành công của TTCK và hướng đến một năm Nhâm Dần với nhiều triển vọng.

Khép lại phiên giao dịch hôm nay, VN-Index tăng 8,2 điểm (+0,56%) đạt 1.478,96 điểm. Thanh khoản HoSE đạt 702,6 triệu đơn vị, tương đương gần 20.662 tỷ đồng – tăng 23,2% so với phiên 27/1. Sắc xanh áp đảo sàn HoSE với 307 mã tăng (17 mã tăng trần) và 129 mã giảm điểm.

Đáng chú ý, VN30 – chỉ số chủ lực dẫn dắt TTCK, tăng 15,67 điểm (+1,03%) – gấp đôi VN-Index.

Cổ phiếu ngân hàng tiếp tục đóng vai trò chủ lực với nhiều mã tăng mạnh như TPB (+4,4%) – cũng là mã  tăng tốt nhất trong rổ VN30. Tiếp theo, phải kể đến VPB (+3,4%), MBB (+2,1%), TCB (+1,7%), BID (+0,7%), STB (+0,4%), HDB (+0,3%).  

Trong khi đó, VCB (-2,2%), ACB (-1%) lại giảm điểm – đây cũng là những nhân tố tác động mạnh khiến chỉ số chính không thể đóng phiên ở mốc cao nhất.

Với các mã ngân hàng ngoài nhóm VN30, EIB tăng 6,1% - tăng mạnh nhất nhóm “bank”. Thậm chí, EIB còn chạm giá trần trong phiên. Bên cạnh EIB, một số mã ngân hàng khác cũng tăng tốt như: SHB (+2,7%), LPB (+2%), PGB (+2%), VIB (+1,6%)…

Bên cạnh đó, nhóm cổ phiếu chứng khoán cũng giao dịch khởi sắc. Các mã đầu ngành đều tăng tốt như BSI tăng hết biên độ, SSI (+3,8%), VND (+6,2%), HCM (+3,2%), VCI (+1,6%)….  Ngoài ra, phải kể đến VUA (+14,3%) – mã này mới lên sàn UPCOM từ phiên 25/1 và đã tăng trần 3 phiên liên tục (25/1-27/1), ART (+5,3%), PSI (+4,9%), API (+4,8%), PHS (+4%)…

Sắc xanh cũng lan tỏa với nhiều mã bất động sản hồi phục tăng điểm như QCG tăng hết biên độ, SSH (+8,2%), NBB (+6,7%), HQC (+6,6%), SCR (+6%), PDR (+3,8%), CII (+2%), NVL (+1,1%)… Ở chiều ngược lại, nhiều mã cổ phiếu địa ốc giảm điểm như: DIG giảm sàn, DXG (-2,4%), VHM (-0,9%), KDH (-0,2%)…

Nhóm cổ phiếu thị trường cũng gây ấn tượng. Đơn cử, cổ phiếu FLC của tỷ phú Trịnh Văn Quyết chốt phiên tím trần. Ngoài ra, các mã khác thuộc “họ” FLC cũng tăng tốt như: AMD (+3,8%), ROS (+4,4%), HAI (+4,7%), ART (+5,3%).

Sẽ là thiếu sót nếu không đề cập nhóm bảo hiểm, với MIG tăng trần, BIC (+5,2%), PGI (+4,8%), VNR (+4,1%), PVI (+4%), BVH (+1,1%)…

Trong ngày TTCK giao dịch rất tích cực, nhóm cổ phiếu dầu khí lại gây chú ý khi bị xả bán rất mạnh với OIL giảm 9,5%, PVC, PVD giảm sàn, PVS (-6,2%), BSR (-4,7%), PSH (-4,6%), PVB (-2,7%)....

Ngoài ra, phải kể đến HAG chốt phiên giảm sàn sau thông tin doanh nghiệp này kiến nghị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xin không huỷ niêm yết bắt buộc. Công ty quan ngại cổ phiếu bị hủy niêm yết khỏi HOSE vì lỗ liên tiếp 3 năm từ 2017-2019 (lỗ sau điều chỉnh hồi tố) và lợi nhuận chưa phân phối hiện vẫn là số âm.

Về giao dịch của NĐTNN, khối ngoại mua ròng 337,28 tỷ đồng và đây cũng là phiên mua ròng thứ 4 liên tiếp của họ. NĐTNN tập trung vào mua ròng các mã KBC (+113,8 tỷ đồng), STB (+90,7 tỷ đồng), VRE (+88,3 tỷ đồng), SSI (+75,8 tỷ đồng)... Trong khi đó, khối ngoại bán ròng HPG (-223,1 tỷ đồng), VIC (-80,4 tỷ đồng), NVL (-59,3 tỷ đồng), VNM (-38 tỷ đồng)...

Trên TTCK phái sinh, với ảnh hưởng tích cực từ VN30, cả 4 HĐTL đều tăng mạnh với biên độ từ +9,3 điểm đến +24,9 điểm. “Basis” dao động từ -4,24 điểm đến -18,94 điểm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ