VN-Index 'loanh quanh' mốc 1.100 điểm

Nhàđầutư
VN-Index vẫn chật vật quanh ngưỡng 1.100 điểm trong suốt hơn một tháng qua trong bối cảnh thanh khoản suy giảm.
NHẬT HUỲNH
02, Tháng 12, 2023 | 08:17

Nhàđầutư
VN-Index vẫn chật vật quanh ngưỡng 1.100 điểm trong suốt hơn một tháng qua trong bối cảnh thanh khoản suy giảm.

Empty

Thị trường chứng khoán đang duy trì tích lũy trong biên độ hẹp, thanh khoản ở mức thấp. Ảnh Trọng Hiếu

Tuy không có nhiều sự thay đổi về mặt chỉ số trong tuần vừa qua nhưng sự phân hóa vẫn được ghi nhận. Riêng phiên 1/12, mặc dù giằng co mạnh trong phần lớn thời gian giao dịch song phe mua áp đảo vào nửa cuối phiên chiều giúp chỉ số chính VN-Index đảo chiều và tăng hơn 8 điểm, qua đó vươn lên mức 1.102,16 điểm. Mức tăng hơn 0,7% cũng đưa VN-Index trở thành một trong những thị trường tích cực nhất châu Á.

Kết thúc tuần, VN-Index dừng tại mức 1.102,16 điểm, tăng 6,55 điểm (tương đương 0,6%) so với tuần trước.

Xét theo mức độ đóng góp, BID, GAS và VNM là những mã có tác động tích cực nhất đến VN-Index. Trong đó, tính riêng BID đã đóng góp gần 0,7 điểm cho chỉ số này. Ở chiều ngược lại, VHM là mã có tác động tiêu cực nhất.

Trong tuần thanh khoản trên HOSE chỉ đạt 65.271,74 tỷ đồng, giảm mạnh 28,9% so với tuần trước, khối lượng giao dịch cũng giảm tương ứng. Tính trên cả 3 sàn, giá trị giao dịch bình quân phiên trong tuần ở mức 15.042 tỷ đồng, giảm 28,9% so với tuần trước và 20,8% so với trung bình 5 tuần.

Nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục bán ròng trong tuần với giá trị 707,19 tỷ đồng trên HOSE, bán ròng trên HNX với giá trị 11,69 tỷ đồng.

Với thị trường chung duy trì tích lũy trong biên độ hẹp, thanh khoản ở mức thấp thì cũng không có nhiều điểm nhấn nổi bật, tuy vậy vẫn có số ít mã tích cực vượt trội trong các nhóm ngành như nông nghiệp với HAG (+13,46%), DBC (+4,58%), LSS (+3,56%), nhóm bất động sản khu công nghiệp như ITA (+7,48%), VGC (+6,15%), GVR (+3,07%)... cảng, vận tải biến với DVP (+10%), VOS (+8,7%), HAH (+6,77%)... bán lẻ với PET (+5,94%)...

Trong khi đó nhóm cổ phiếu bất động sản ngoài các cổ phiếu có diễn biến tích cực như VHM (+4,6%), SJS (+10,47%), NTL (+6,11%),... thì đa số chịu áp lực giảm điểm. Các cổ phiếu ngân hàng có diễn biến kém tích cực khi hầu hết giảm điểm, thanh khoản rất thấp như STB (-2,83%), EIB (-2,14%), NAB (-2,1%), VAB (1,49%)...

SHS nhận định VN-Index vẫn đang trong khu vực kiểm định lại ngưỡng 1.100 điểm và khả năng thị trường sẽ hình thành nhịp tăng mới là khá cao. Trong trung hạn, nhóm phân tích này cho rằng sau giai đoạn giảm sâu thì thị trường cần vận động để tiến tới vùng cân bằng mới và tích lũy lại, với thời gian hình thành nền mới sẽ kéo dài.

Đối với nhà đầu tư ngắn hạn, cơ hội giải ngân vẫn xuất hiện nếu VN-Index duy trì giao dịch trên 1.100 điểm và thanh khoản dần cải thiện. Với nhà đầu tư trung, dài hạn, nhà đầu tư có thể chờ cơ hội giải ngân thêm.

Về góc nhìn kỹ thuật, VCBS cho biết VN-Index sẽ tiếp tục giao dịch tích lũy, tăng giảm đan xen. Tuy nhiên, nếu lực cầu vẫn chưa gia tăng tốt, thị trường sẽ tiếp tục phân hóa và giao dịch giằng co với biên độ 10 điểm. Nhà đầu tư vẫn nên giữ nguyên tỷ trọng danh mục và có thể giải ngân cho mục tiêu lướt sóng ngắn hạn trong các nhịp rung lắc, nhưng cần duy trì tâm lý thận trọng và bám sát diễn biến trong phiên để kịp thời cơ cấu danh mục cho mục tiêu quản tri rủi ro nếu thị trường bất ngờ xuất hiện xu hướng tiêu cực vượt kỳ vọng.

Tương tự, theo VDSC, thanh khoản vẫn duy trì ở mức thấp, cho thấy nguồn cung chưa gây nhiều sức ép ở vùng giá thấp và nhờ đó dòng tiền có cơ hội hỗ trợ thị trường vào giai đoạn cuối phiên 1/12. Với tín hiệu hỗ trợ hiện tại, có khả năng thị trường sẽ tiếp tục quá trình thăm dò nguồn cung tại vùng 1.100 – 1.108 điểm. Do vậy, nhà đầu nên chậm lại và tránh trạng thái quá mua, đồng thời quan sát nỗ lực của dòng tiền tại vùng cản. Hiện tại, vẫn nên tận dụng nhịp hồi phục để cơ cấu danh mục theo hướng giảm thiểu rủi ro.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ