Tồn đọng 28.000 container tại các cảng biển sẽ gây ra hậu quả nặng nề về ô nhiễm môi trường

Nhàđầutư
Hiện nay, cả nước còn 28.000 container tồn đọng gây cản trở việc kinh doanh cảng, một số container cũ nát như phế liệu gây ô nhiễm môi trường. Đây là những tồn đọng diễn ra trong nhiều năm qua, đã đến lúc Bộ GTVT, Bộ Công thương, Bộ Tài Chính cần phải vào cuộc để giải quyết tồn đọng này.
PHAN CHÍNH
14, Tháng 06, 2018 | 10:30

Nhàđầutư
Hiện nay, cả nước còn 28.000 container tồn đọng gây cản trở việc kinh doanh cảng, một số container cũ nát như phế liệu gây ô nhiễm môi trường. Đây là những tồn đọng diễn ra trong nhiều năm qua, đã đến lúc Bộ GTVT, Bộ Công thương, Bộ Tài Chính cần phải vào cuộc để giải quyết tồn đọng này.

khoang-1700-container-ton-dong-tai-cang-quy-nhon-1415

28.000 container tồn đọng tại các cảng biển gây ô nhiễm môi trường. Ảnh: Internet

Trao đổi với PV Nhadautu.vn, ông Nguyễn Xuân Sang, Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam cho biết, tính đến ngày 31/5/2018, số lượng hàng hóa chậm luân chuyển có nguy cơ tồn đọng tại các cảng biển Việt Nam là 27.944 container, trong đó khu vực cảng biển Hải Phòng có 6.753 container; khu vực cảng biển Hồ Chí Minh có 14.658 container; khu vực cảng biển Bà Rịa-Vũng Tàu có 6.533 container; khu vực cảng biển Quảng Ninh, Cần Thơ, Đà Nẵng không có hàng chậm luân chuyển.

nguyenxuansang

 

Sẽ có nguy cơ sẽ gây ra hậu quả nặng nề về ô nhiễm môi trường, chi phí từ ngân sách để tiêu huỷ, ách tắc tại các cảng biển Việt Nam khi hàng hoá không thể giải phóng

Nguyễn Xuân Sang, Cục trưởng Cục hàng hải Việt Nam

Theo ông Sang, trong thời gian gần đây, chính sách thương mại của các cường quốc kinh tế thế giới có nhiều thay đổi với diễn biến phức tạp khó dự đoán. Đơn cử như việc Trung Quốc thông báo ngừng nhập khẩu 24 mặt hàng phế liệu có thể tái chế từ ngày 1/1/2018. Theo đó, một lượng lớn các mặt hàng này từ các nước phát triển như Mỹ, châu Âu, Úc... sẽ không được nhập khẩu vào Trung Quốc mà sẽ tìm đường vào các nước châu Á khác, trong đó có Việt Nam.

Vị này cho biết thêm, hiện số container có nguy cơ tồn đọng này chủ yếu là dây cáp điện, máy móc thiết bị cũ, phân bón, hàng nông sản, nguyên liệu may mặc, nhôm nguyên liệu, phế liệu nhựa, giấy, xe ôtô...

Cục trưởng Sang thông tin, tới đây, một lượng lớn hàng phế liệu nhựa, giấy sẽ tiếp tục đổ về các cảng biển Việt Nam do hãng tàu, khách hàng đã ký hợp đồng hoặc hàng đã được xếp lên tàu đang trên đường vận chuyển. Vì thế, sẽ có nguy cơ sẽ gây ra hậu quả nặng nề về ô nhiễm môi trường, chi phí từ ngân sách để tiêu huỷ, ách tắc tại các cảng biển Việt Nam khi hàng hoá không thể giải phóng.

Ông này nói, việc hàng hoá chậm luân chuyển có nguy cơ tồn đọng tại các cảng biển Việt Nam dẫn tới các doanh nghiệp cảng phải luân chuyển nhiều lần vị trí các container trong bãi cảng hoặc có nhu cầu vận chuyển giữa các bển cảng, ICD khác để chứa. Điều đó sẽ làm gia tăng chi phí cho các cảng, khách hàng, hãng tàu và giảm năng suất, hiệu quả khai thác cảng; ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa khác của doanh nghiệp Việt Nam.

Cục Hàng hải Việt Nam kiến nghị Bộ GT-VT báo cáo Chính phủ chỉ đạo các Bộ Tài chính, Công Thương, Tài nguyên và Môi trường có giải pháp kịp thời xử lý hàng hoá chậm luân chuyển có nguy cơ tồn đọng tại cảng biển Việt Nam để hạn chế các lô hàng nhựa, giấy phế liệu đã về đến nước ta nhưng chưa làm thủ tục nhập khẩu; Bộ GT-VT có ý kiến với Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Hải quan sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc xử lý các mặt hàng đã lưu bãi trên 90 ngày tại các cảng biển Việt Nam; đồng thời tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp phối hợp với hãng tàu và khách hàng chủ động chuyển các lô hàng này về cảng khác trước khi tàu cập các cảng biển Việt Nam, tránh kéo dài thời gian giải phóng tàu làm phát sinh chi phí cho các bên liên quan...

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25030.00 25048.00 25348.00
EUR 26214.00 26319.00 27471.00
GBP 30655.00 30840.00 31767.00
HKD 3156.00 3169.00 3269.00
CHF 27071.00 27180.00 27992.00
JPY 159.45 160.09 167.24
AUD 15862.00 15926.00 16400.00
SGD 18109.00 18182.00 18699.00
THB 667.00 670.00 696.00
CAD 17920.00 17992.00 18500.00
NZD   14570.00 15049.00
KRW   17.26 18.81
DKK   3520.00 3646.00
SEK   2265.00 2349.00
NOK   2255.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ