Tìm cơ hội tại những cổ phiếu tốt

Nhàđầutư
Các công ty chứng khoán nhận định đà giảm của thị trường xét về mặt chỉ số đang chậm lại và việc lựa chọn đúng cổ phiếu sẽ tạo ra nhiều cơ hội trong giai đoạn hiện nay.
NHẬT HUỲNH
22, Tháng 04, 2022 | 08:06

Nhàđầutư
Các công ty chứng khoán nhận định đà giảm của thị trường xét về mặt chỉ số đang chậm lại và việc lựa chọn đúng cổ phiếu sẽ tạo ra nhiều cơ hội trong giai đoạn hiện nay.

Empty

Những mã cổ phiếu bluechips có nền tảng cơ bản tốt được kỳ vọng sớm phục hồi khi tâm lý thị trường ổn định trở lại. Ảnh Trọng Hiếu

Áp lực bán dâng cao ngay từ khi mở cửa phiên 21/4 khiến các chỉ số chứng khoán chính đều chìm trong sắc đỏ. Mặc dù, có thời điểm chỉ số đã hồi phục lên trên mức tham chiếu nhưng cũng chỉ duy trì được trong thời gian ngắn. Lực bán gia tăng nhanh sau 14h khiến hàng loạt các cổ phiếu vốn hóa lớn như VHM, VIC, GAS, NVL, VNM, MSN…nới rộng đà giảm vể cuối phiên.

VN-Index chốt phiên 21/4 giảm 14,51 điểm xuống 1.370,21 điểm với 311 mã giảm (92 mã nằm sàn) và 132 mã tăng. Ở các chỉ số thị trường khác, HNX-Index giảm 13,43 điểm (3,53%) còn 366,61 điểm, UpCOM-Index giảm 1,51 điểm (1,42%) xuống 104,89 điểm. Tính tổng trên 3 sàn có 752 mã giảm (189 mã sàn) và 258 mã tăng với tổng thanh khoản ở mức 28.130 tỷ đồng, tăng 16% so với phiên trước đó.

Yuanta dự báo thị trường có thể phục hồi khi chỉ số VN-Index hình thành dấu hiệu đảo chiều ngắn hạn và giao dịch gần vùng hỗ trợ ngắn hạn 1.350 điểm. Đồng thời, chỉ báo tâm lý tiếp tục giảm mạnh vào vùng bi quan quá mức nên công ty này khuyến nghị các nhà đầu tư ngắn hạn cần hạn chế bán tháo vì thị trường có thể sớm xác lập vùng đáy ngắn hạn hoặc sớm xuất hiện các nhịp hồi kỹ thuật.

Ngoài ra, chỉ số VNMidcaps và VNSmallcaps giảm về đường trung bình 200 phiên và có dấu hiệu xuất hiện nhịp hồi phục trong 1-2 phiên tới, hay nói cách khác là áp lực bán tháo có thể giảm ở những phiên giao dịch tới.

“Chúng tôi khuyến nghị các nhà đầu tư ngắn hạn nên hạn chế bán tháo ở các nhịp giảm mạnh trong phiên và vẫn ưu tiên đưa margin về mức thấp để tránh tình trạng bị bán giải chấp từ các công ty chứng khoán. Đồng thời, quan sát và chờ đợi dấu hiệu đảo chiều rõ ràng hơn”, Yuanta khuyến nghị.

Cùng chúng quan điểm, CTCK Tân Việt (TVSI) cho rằng, đà giảm của thị trường xét về mặt chỉ số đang chậm lại và một số ít các cổ phiếu bluechips đang tạm tìm được điểm dừng. Do đó, xu hướng ngắn hạn hiện vẫn quá rủi ro và chỉ chiến lược đầu tư trung và dài hạn mới phù hợp để giải ngân lúc này.

Còn theo SHS, nếu xét trên khía cạnh định giá thì P/E của VN-Index sau phiên 21/4 là khoảng 16 lần, xấp xỉ mức trung bình 5 năm. Trong khi đó, P/E của VN30 chỉ có 15,1 lần, thấp hơn mức trung bình 5 năm. Với mức định giá như trên, nhóm phân tích này cho rằng, khả năng thị trường giảm mạnh là khó có thể xảy ra và trong phiên giao dịch cuối tuần, VN-Index vẫn có thể hồi phục trở lại nếu ngưỡng hỗ trợ 1.350 điểm được giữ vững.

Về phần mình, Agriseco Research cho biết VN-Index đã giảm hơn 150 điểm (-10,3%) trong tháng 4, với hàng loạt mã đầu cơ bị bán giảm mạnh sau giai đoạn tăng nóng. Nhiều cổ phiếu đã chạm ngưỡng bị bán giải chấp khi sử dụng đòn bẩy tài chính, đồng thời kéo theo sự sụt giảm của nhiều mã cổ phiếu bluechips đầu ngành.

“Mặt bằng định giá P/E của thị trường đang khá hấp dẫn so với trong khu vực và so với tiềm năng tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp trong năm 2022. Chúng tôi đánh giá những mã cổ phiếu bluechips có nền tảng cơ bản tốt sẽ sớm phục hồi khi tâm lý thị trường ổn định trở lại. Việc lựa chọn đúng cổ phiếu sẽ tạo ra nhiều cơ hội trong giai đoạn hiện nay”, Agriseco Research nhận định.

Agriseco Research khuyến nghị nhà đầu tư nên hạn chế sử dụng margin và tuân thủ kỷ luật cắt lỗ để bảo toàn danh mục trước những biến động bất thường của thị trường. Từ đó, công ty này đặc biệt lưu ý đến 5 mã cổ phiếu là BID, MBB, HPG, POW và VRE.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ