Thị trường rung lắc mạnh, 150 mã giảm sàn phiên đầu tuần

Nhàđầutư
Lực cầu dâng cao, đặc biệt đổ mạnh vào nhóm cổ phiếu ngân hàng có thời điểm đã kéo VN-Index tăng hơn 14 điểm, song ở chiều ngược lại, đà giảm sốc của cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ lại khiến chỉ số chính đảo chiều giảm điểm về cuối phiên.
NHẬT HUỲNH
22, Tháng 11, 2021 | 15:24

Nhàđầutư
Lực cầu dâng cao, đặc biệt đổ mạnh vào nhóm cổ phiếu ngân hàng có thời điểm đã kéo VN-Index tăng hơn 14 điểm, song ở chiều ngược lại, đà giảm sốc của cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ lại khiến chỉ số chính đảo chiều giảm điểm về cuối phiên.

z-a-9607-1554

Ảnh Internet

Sau phiên điều chỉnh cuối tuần trước, VN-Index bước vào phiên đầu tuần với sắc xanh nhẹ nhưng sau đó đã nhanh chóng quay đầu giảm điểm. Một tiếng sau đó, lực cầu dâng cao, đặc biệt đổ mạnh vào nhóm cổ phiếu ngân hàng đã kéo VN-Index tăng hơn 14 điểm. Dù vậy, thị trường sau đấy lại rơi vào trạng thái rung lắc mạnh khi hàng loạt của cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ giảm sàn, VN-Index đảo chiều giảm hơn 9 điểm, trước khi quay đầu tăng 6 điểm lúc kết phiên sáng nhờ sự hồi phục của cổ phiếu midcap và penny cùng với sự hậu thuẫn từ nhóm vốn hóa lớn.

Bước sang phiên chiều, áp lực bán mạnh xuất hiện khiến hàng loạt nhóm ngành cổ phiếu lao dốc, đến khoảng 14h toàn thị trường ghi nhận số mã nằm sàn lên đến 150. Trong khi đó, VN30-Index vẫn tăng mạnh nhưng hạ nhiệt đáng kể, chỉ còn tăng 16 điểm.

Chốt phiên 22/11, VN-Index giảm 5,1 điểm xuống 1.447,25 điểm với 127 mã tăng điểm, 350 mã giảm. Thanh khoản đạt 1,26 tỷ đơn vị, tương đương tổng GTGD 36.576 tỷ đồng. VN30-Index tăng 16,99 điểm lên mức 1.517,04 điểm với 19 mã tăng điểm và 10 mã giảm, GTGD 11.918 tỷ đồng, bằng 33,5% so với thanh khoản HOSE. Tác động tích cực nhất lên thị trường trong phiên hôm nay là CTG khi tăng 5,2%, đóng góp 2,08 điểm cho Index, ngoài ra còn có VCB (+1,8%), BID (+2,6%), VIB (+6,9%), HDB (+7%).

Dòng tiền rút mạnh khỏi nhóm cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ khiến chỉ số VNSmallcap giảm 76,96 điểm, còn VNMidcap giảm 49,74 điểm. HNX-Index giảm 9,35 điểm xuống 444,62 điểm, còn UPCOM giảm 1,28 điểm xuống 111,96 điểm.

Trụ đỡ của thị trường trong phiên hôm nay đến từ sắc xanh của nhóm cổ phiếu ngân hàng. Trong đó, các mã CTG, BID, VCB, TCB, VIB… là những mã tác động tích cực nhất đến chỉ số. Ngoài ra nhiều mã khác cũng tăng mạnh như NVB (+4,4%), VBB (+11,2%), TPB (+6,9%), BAB (+7,3%), BVB (+5,9%), LPB (+3,3%), STB (+3,2%),...

Nhóm cổ phiếu sắt thép có sự hồi phục sau giai đoạn giảm giá trước đó. Nổi bật trong nhóm là HSG khi cổ phiếu này bật tăng ấn tượng gần 4% trước khi thu hẹp đà tăng còn 2,4% về cuối phiên, NKG tăng 1,2%, HPG tăng 1,4%, SMC tăng 1,9%, POM tăng 2%.

Ở chiều ngược lại, nhóm bất động sản lại bị bán mạnh trong phiên hôm nay, loạt mã vốn hóa lớn kết phiên giảm mạnh như G36 (-14,35), DIG (-7%), L14 (-14%), SCR (-6,8%), KHG (-6,8%), IJC (-6,9%), CKG (-7%), CEO (-6,7%), VCR (-6,8%), CRE (-5,7%), HDG (-4,2%), HPX (-3,25),...Các mã giảm điểm trong nhóm bất động sản khu công nghiệp có KBC (-7%), VGC (-6,9%), ITA (-6,8%), LHG (-6,4%), BCM (-5,4%), GVR (-5,6%),...

Nhóm chứng khoán sau thời gian hứng khởi đầu phiên cũng đã quay đầu chốt phiên trong sắc đỏ, điển hình như APS (-6,9%), ORS (-4%), HCM (-3,4%), AGR (-4%), VIX (-5,6%), MBS (-1,4%),...

Nhóm cổ phiếu xăng dầu và dầu khí cũng biến động tiêu cực, trong đó, OIL giảm 9,5%, BSR giảm 7,7%, PGS giảm 8,7%, PVD giảm 6,8%, PXS giảm 6,9%, ASP giảm 3,2%...Tương tự, nhóm logictics cũng giảm mạnh là DXP (-9,8%), VOS (-6,8%), PVT (-6,1%), PHP (-3,7%), GMD (-3,1%), DVP (-1,9%),...

Về giao dịch của NĐTNN, khối ngoại đẩy mạnh mua ròng với giá trị gần 500 tỷ đồng trên HOSE, tập trung mua VHM (+137 tỷ đồng), CTG (+83 tỷ đồng), GMD (+74 tỷ đồng). Ở chiều ngược lại, NĐTNN bán VPB (-170 tỷ đồng), TPB (-83 tỷ đồng), HCM (-36 tỷ đồng).

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ