Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao: Vấn đề lớn và bài toán chính sách

Nhàđầutư
Nhà Đầu Tư xin giới thiệu bài viết của TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương, về chủ đề "Gói tín dụng dành cho nông nghiệp công nghệ cao, bài toán chính sách và giải pháp" tại Hội thảo về tín dụng cho nông nghiệp công nghệ cao tổ chức vào sáng nay.
TS. VÕ TRÍ THÀNH
04, Tháng 07, 2017 | 14:19

Nhàđầutư
Nhà Đầu Tư xin giới thiệu bài viết của TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương, về chủ đề "Gói tín dụng dành cho nông nghiệp công nghệ cao, bài toán chính sách và giải pháp" tại Hội thảo về tín dụng cho nông nghiệp công nghệ cao tổ chức vào sáng nay.

149913236557994-anh2

Hội thảo "Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng cho nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao" 

Thế giới đã có những thay đổi nhận thức sâu sắc về khả năng tạo giá trị gia tăng của nông nghiệp cũng như về vai trò của nông nghiệp trong đời sống nông thôn và phát triển nói chung. Việt Nam là một đất nước có không ít lợi thế so sánh và tiềm năng cho phát triển nông nghiệp.

Cải cách nông nghiệp Việt Nam 30 năm qua chủ yếu gắn với hộ nông dân cùng tạo chất “xúc tác”, động lực cho người nông dân làm ăn. Đó là quyền sử dụng đất, quyền khai thác đất đai cho sản xuất lâu dài và cùng với đó là quyền tự chủ trong một nền kinh tế định hướng thị trường, mở cửa. Việt Nam đã thu được những thành tựu hết sức có ý nghĩa về xuất khẩu nông sản, đảm bảo an ninh lương thực, và xoá đói giảm nghèo.

Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy, tăng trưởng nông nghiệp đã chững lại. Giá trị gia tăng tạo ra trong nông sản và lợi ích đem lại cho người nông dân chưa tương xứng với lợi thế của nông nghiệp Việt Nam cũng như công sức họ bỏ ra. Đặc biệt, khoảng cách giữa thực trạng sản xuất nông nghiệp và yêu cầu mới đối với phát triển còn rất lớn. Tất cả những điều đó đòi hỏi Việt Nam phải thực sự nỗ lực tái cấu trúc sản xuất nông nghiệp vì mục tiêu phát triển hiệu quả, bền vững và đem lại lợi ích cao hơn, thiết thực hơn cho người nông dân.

Nói cách khác, chúng ta cần một cụ huých mạnh, thâm chí là một cuộc cách mạng mới cho sản xuất nông nghiệp, cả về cải cách thể chế, cả trong cách thức sản xuất kinh doanh. Và ở đây, một điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa cú huých đó chính là việc lấy doanh nghiệp (cùng người nông dân) giữ vai trò trung tâm và đi vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Chỉ có như vậy, sản xuất nông nghiệp mới có thể mang tính liên kết cao giữa các bên liên quan, giữa tất cả các khâu trong chuỗi giá trị, giữa lợi thế so sánh và lợi thế nhờ qui mô và thị trường, đảm bảo chất lượng sản phẩm, qua đó tạo giá trị gia tăng cao.

Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là nền tảng đáp ứng đòi hỏi mới của người tiêu dùng: sản phẩm phải “xanh”, đảm bảo tiêu chuẩn và hữu ích. Không chỉ sản phẩm mà cả quá trình sản xuất cũng phải “xanh” và thỏa mãn những tiêu chí chất lượng và chuẩn mực được thừa nhận/cam kết. Đây là những yếu tố rất quan trọng trong khai thác thị trường nội địa và quốc tế với sự nổi lên của tầng lớp trung lưu. Đây còn là giải pháp để sản xuất nông nghiệp có thể thích ứng tốt hơn với biến đối khí hậu, cả tối thiểu hóa tác động bất lợi và cả chuyển đổi, tận dụng có hiệu quả.

Trong vài ba năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp, kể cả những công ty lớn, các định chế tài chính, không chỉ ngân hàng mà cả các quỹ đầu tư, đã và đang chuyển dịch vốn, đầu tư, kinh doanh sang khu vực nông nghiệp. Sự tham gia đồng hành của Nhà nước, các nhà khoa học, các tổ chức xã hội... cũng là rất đáng trân trọng và khích lệ.

Điều đáng nói là sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trước hết phải dựa trên tín hiệu thị trường, phản ánh cả nhu cầu và đòi hỏi mới. Sức hấp dẫn đối với với nhà đầu tư, doanh nghiệp trước hết và chính là ở đây. Vai trò của Nhà nước không nhỏ: loại bỏ rào cản thể chế, khắc phục “thất bại thị trường”, giảm thiểu rủi ro sản xuất kinh doanh (thường cao trong nông nghiệp), hạn chế phân phối lợi ích thiếu công bằng... Cái khó là thực hiện vai trò đó sao cho thích hợp, có hiệu lực. Dưới đây chỉ lưu ý đến một số điểm, thiết nghĩ là đáng lưu tâm ở Việt Nam hiện nay.

Một là nguy cơ chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp công nghệ cao không thực chất, mang tính “phong trào”. Hậu quả là không tạo được cú hích thực sự, quá trình chuyển đổi thiếu bền vững. Người ta có thể lợi dụng “ngọn cờ phong trào”  để có lạm dụng chính sách, làm méo mó thị trường (vốn là cơ chế đảm bảo hiệu quả). Bài học kinh nghiệm cho thấy, người nông dân chưa hẳn được hưởng lợi tương xứng từ chính sách hỗ trợ. Chưa nói, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao còn cần những lời giải đáp thấu đáo về vấn đề tích tụ đất đai, dịch chuyển lao động, lợi ích trước mắt và lâu dài của người nông dân.

Vì vậy, chúng ta cần làm quyết liệt nhưng phải bài bản và có sự nghiên cứu nghiêm túc. Rất cần tránh sự dẫn lối chính sách mang tính áp đặt.

Hai là có những điểm chung, thường dễ thống nhất, giải trình (và phù hợp với cam kết quốc tế) về sự hỗ trợ của Nhà nước, như vấn đề nghiên cứu và triển khai (R&D), cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, đào tạo tay nghề và kỹ năng việc làm, khuyến nông, và cả về phát triển kết cấu hạ tầng. Điều quan trọng ở đây là việc đảm bảo minh bạch, tăng cường tiếng nói phản hồi của người dân, lựa chọn ưu tiên, nhất là trong bối cảnh nguồn lực Nhà nước hạn chế.

Ba là câu chuyện xoay quanh chính sách tín dụng hỗ trợ sản xuất công nghiệp công nghệ cao. Đây là vấn đề cần xem xét kỹ. Có hai câu hỏi ở đây. Thứ nhất, thế nào là sản xuất nông nghiệp công nghệ cao? Nhìn nhận theo tiêu chí nguồn lực doanh nghiệp (công nghệ sản xuất, chất lượng lao động), quy trình tạo ra sản phẩm, đầu ra là bản thân sản phẩm, hay kết hợp các tiêu chí đó. Dù thế nào thì quan trọng nhất có lẽ vẫn là quy trình và sản phẩm.

Thứ hai, làm sao có được một chính sách tín dụng hỗ trợ hợp lý? Trước hết, như đã nói ở trên, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao có lực kéo cơ bản là tín hiệu thị trường. Tuy nhiên, nó cũng chứa những rủi ro, bất định, nhất là khi mới ở giai đoạn “thử nghiệm”. Chính vì vậy, sự hỗ trợ tín dụng (như qua lãi suất) phải được xem là sự chia sẻ rủi ro trong trường hợp không thành công. Trái lại, nếu đầu tư sản xuất kinh doanh thành công, doanh nghiệp cần bồi hoàn (một phần hoặc đầy đủ) sự hỗ trợ đó. 

Cùng với quá trình nâng cao năng lực, tính tự chủ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), việc hoàn thiện chính sách tiền tệ, lành mạnh hóa hệ thống các ngân hàng thương mại thì hỗ trợ tín dụng (như qua lãi suất) phải là từ tiền ngân sách (tường minh). Trước mắt, chúng ta có thể sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHNN để hỗ trợ. Song như vậy cũng cần phải có chừng mực, vì hiện chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tín dụng nói riêng đang chịu nhiều sức ép và “gánh nặng” cho mục tiêu ổn định và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó, rất cần hoàn thiện cơ chế bảo hiểm sản xuất nông nghiệp. Chúng ta đã có những quy định về vấn đề này, tuy nhiên bảo hiểm sản xuất nông nghiệp lâu nay chưa được áp dụng rộng rãi, có hiệu quả. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để chia sẻ rủi ro cho doanh nghiệp và người nông dân. 

Bốn là về mô hình sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao nói riêng. Dù có thể đa dạng về hình thái, song các mô hình đó phải đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản. Một là, chúng phải có được lợi thế nhờ quy mô, nhờ đó tạo khả năng tốt hơn trong hấp thụ vốn và công nghệ. Hai là, chúng (dần) phải gắn với chuỗi giá trị, từ R&D, tạo giống, trồng trọt, thu hoạch, sơ chế/tinh chế, đến phân phối tiêu thụ ở trong nước và ngoài nước.

Có thể không phải mọi công đoạn sẽ được thiết lập đầu đủ ngay, song bài toán chuỗi giá trị phải được tính toán ngay từ đầu nhằm kết nối các bên liên quan (nông dân, doanh nghiệp sản xuất, nhà phân phối, nhà khoa học, các tổ chức tài chính) và nhằm dần tạo giá trị gia tăng cao hơn. Ba là, chúng phải gắn bó về mặt kinh tế - xã hội với cuộc sống của người nông dân, tính đến đặc thù vùng miền, dân tộc và đảm bảo khả năng “mặc cả” của người nông dân trong chuỗi.

Trên thực tế, theo sự vận động của thị trường và được Nhà nước “thể chế hóa” thêm, đã xuất hiện mô hình trang trại, mô hình công ty theo hợp đồng (huấn luyện, đào tạo để nông dân trồng trọt đảm bảo đầu vào theo hợp đồng, phần còn lại doanh nghiệp thực thi), mô hình công ty nông dân góp cổ phần, hợp tác xã (kiểu mới)… Mô hình nào cũng có những ưu và nhược điểm nhất định, song là kinh nghiệm quý báu để nghiên cứu, triển khai trên thực tế cùng với những chính sách hỗ trợ hợp lý.

Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là vấn đề lớn. Đó không chỉ là bài toán tính toán lỗ lãi kinh doanh, dù rất quan trọng, mà còn là câu chuyện về tái cấu trúc nền nông nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, cần có những nghiên cứu sâu sắc bao quanh ba cụm từ “sự dẫn dắt thị trường và doanh nghiệp”, “hỗ trợ Nhà nước” và “lợi ích các bên liên quan, nhất là của người nông dân” và đằng sau đó là chất lượng tăng trưởng nông nghiệp và sự phát triển bền vững nông thôn Việt Nam. Để rồi chúng ta có những nỗ lực thực thi trên thực tế thực sự quyết liệt, bài bản và hiệu quả./.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ