Sacombank được lợi thế nào nếu 80 ngàn tỷ đồng nợ xấu sinh lời?

Nhàđầutư
Cuối tuần trước Sacombank đã tổ chức thành công ĐHĐCĐ sau 2 năm trì hoãn. Cùng với việc phương án tái cấu trúc đã được NHNN phê duyệt, một ban lãnh đạo mới đã được bầu ra, đứng đầu là Chủ tịch Dương Công Minh. Sacombank đang trên đường trở lại quỹ đạo hoạt động bình thường.
THU THỦY
03, Tháng 07, 2017 | 10:01

Nhàđầutư
Cuối tuần trước Sacombank đã tổ chức thành công ĐHĐCĐ sau 2 năm trì hoãn. Cùng với việc phương án tái cấu trúc đã được NHNN phê duyệt, một ban lãnh đạo mới đã được bầu ra, đứng đầu là Chủ tịch Dương Công Minh. Sacombank đang trên đường trở lại quỹ đạo hoạt động bình thường.

Sacombank moi

Ban lãnh đạo mới của Sacombank đứng đầu là Chủ tịch Dương Công Minh ra mắt tại ĐHĐCĐ  

Vốn là một trong những ngân hàng bán lẻ năng động hàng đầu Việt Nam, Sacombank từng có tốc độ tăng trưởng tổng tài sản và thu nhập lãi thuần bình quân 5 năm trong giai đoạn 2010-2014 lần lượt là 13% và 23%. Năm 2015, sau khi thực hiện sáp nhập với Ngân hàng Phương Nam, Sacombank rơi vào khó khăn do phải tập trung giải quyết núi nợ xấu tồn đọng mà Phương Nam để lại.

Sau sáp nhập, quy mô tài sản của ngân hàng tăng vọt, song tổng số tài sản xấu không sinh lời lên đến gần 100 ngàn tỷ đồng, chiếm gần 30% tổng tài sản. Vừa phải gánh số nợ xấu không thể thu hồi, vừa phải tiếp tục trả lãi cho nguồn vốn huy động từ tiền gửi dân cư, Sacombank gặp khó khăn trầm trọng, chi phí lãi tăng cao trong khi thu nhập lãi gần như không cải thiện. Từ một ngân hàng lành mạnh với lợi nhuận hơn 2.000 tỷ đồng mỗi năm, lợi nhuận của Sacombank sụt giảm mạnh và đến năm 2016 còn vỏn vẹn chưa đầy 100 tỷ đồng.

Theo kết quả kiểm toán, tổng nợ xấu, trái phiếu VAMC và các khoản phải thu khó đòi cuối năm 2016 tại Sacombank lên đến 80 ngàn tỷ đồng. Tuy vậy, Sacombank cho biết đối với các khoản nợ xấu này, ngân hàng hiện đang nắm giữ số tài sản đảm bảo có trị giá lên tới 77 ngàn tỷ đồng, dựa trên kết quả định giá vào giữa năm 2016. Trong đó, 64 ngàn tỷ đồng là bất động sản và 13 ngàn tỷ là cổ phiếu. Chưa kể đến việc thị trường bất động sản và cổ phiếu đã phục hồi và có sự tăng trưởng ấn tượng từ giữa năm 2016 tới nay, số tài sản đảm bảo này, nếu được xử lý, đủ để làm “sống lại” 80 ngàn tỷ tài sản đã “chết” của ngân hàng.

Trong một cuộc họp với giới phân tích hồi đầu tháng 6, ngân hàng cho biết trong số tài sản bảo đảm là bất động sản, có 50 ngàn tỷ đồng đã được hoàn thiện hồ sơ pháp lý. Như vậy, chỉ cần Nghị quyết về xử lý nợ xấu được Quốc hội ban hành và đi vào thực thi, Sacombank sẽ thu hồi dần được số nợ xấu này. Ước tính, ngân hàng có thể thu hồi từ 15 đến 20 ngàn tỷ đồng ngay trong năm 2017 và đến năm 2019 sẽ thu hồi được 50 ngàn tỷ đồng. Số còn lại dự kiến sẽ thu hồi trong khoảng thời gian 2020-2021, ngay trong thời gian HĐQT mới còn đương nhiệm.

Nếu 80 ngàn tỷ đồng này được đưa vào kinh doanh và tạo ra lợi nhuận, Sacombank có thể lời tới đâu? Thay vì phải chật vật cạnh tranh trên thị trường huy động, ngân hàng sẽ có sẵn một khoản tiền lớn để tăng tín dụng mỗi năm. Giả định bắt đầu từ năm 2018 các khoản thu hồi được đẩy trở lại vào thị trường tín dụng (mỗi năm 15 ngàn tỷ đồng) với mức lãi suất cho vay là 8,5%/năm (tương đương với mức lãi suất trung bình hiện tại của ngân hàng), Sacombank sẽ có thêm khoảng 1.300 tỷ đồng từ lãi cho vay mỗi năm, trong khi chi phí vốn không đổi. Trong bối cảnh thị trường huy động đang trở nên cạnh tranh hơn, đây rõ ràng là một lợi thế rất lớn đối với ngân hàng. Bởi con số 80 ngàn tỷ đồng này tương đương với gần 40% quy mô tín dụng hiện tại của Sacombank.

Với việc Nghị quyết về xử lý nợ xấu được ban hành, lợi nhuận sẽ quay trở lại với Sacombank từ cuối năm 2017, đặc biệt là kể từ năm 2018 trở đi./.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ