Quý I/2019: Việt Nam tiếp tục xuất siêu 536 triệu USD

Nhàđầutư
Cán cân thương mại hàng hóa tính chung quý I/2019 tiếp tục xuất siêu 536 triệu USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 7,04 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 7,57 tỷ USD.
HẢI ĐĂNG
30, Tháng 03, 2019 | 07:38

Nhàđầutư
Cán cân thương mại hàng hóa tính chung quý I/2019 tiếp tục xuất siêu 536 triệu USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 7,04 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 7,57 tỷ USD.

xuat-khau-sang-my

Quý I/2019: Việt Nam tiếp tục xuất siêu 536 triệu USD

Nhiều mặt hàng nông sản, thủy sản chủ lực có kim ngạch xuất khẩu giảm 

Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý I/2019 của Tổng cục Thống kê vừa công bố, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I/2019 ước tính đạt 58,51 tỷ USD, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 17,05 tỷ USD, tăng 9,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 41,46 tỷ USD, tăng 2,7%, chiếm 70,9%.

Trong quý I có 9 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 70,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó: điện thoại và linh kiện đạt 12,1 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước; hàng dệt may đạt 7,3 tỷ USD, tăng 13,3%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 6,9 tỷ USD, tăng 9,3%; giày dép đạt 4 tỷ USD, tăng 15,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,9 tỷ USD, tăng 5,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,3 tỷ USD, tăng 17%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,2 tỷ USD, tăng 7,6%; thủy sản đạt 1,7 tỷ USD, giảm 1,4%; sắt thép đạt 1,1 tỷ USD, tăng 3,6%.

Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản quý I năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: Rau quả đạt 885 triệu USD, giảm 8,6%; cà phê đạt 830 triệu USD, giảm 23,8% (lượng giảm 15,3%); hạt điều đạt 625 triệu USD, giảm 17,2% (lượng tăng 4,7%); gạo đạt 567 triệu USD, giảm 23,6% (lượng giảm 11,5%); hạt tiêu đạt 189 triệu USD, giảm 14,7% (lượng tăng 18,5%). 

Riêng mặt hàng cao su đạt kim ngạch xuất khẩu 3 tháng đầu năm 458 triệu USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước (lượng tăng 32%).

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu quý I/2019, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 13 tỷ USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm trước; Tiếp đến là thị trường EU đạt 10,2 tỷ USD, tăng 2,5%; Trung Quốc đạt 7,6 tỷ USD, giảm 7,4%; Thị trường ASEAN đạt 6,3 tỷ USD, tăng 6%; Nhật Bản đạt 4,7 tỷ USD, tăng 9,4%.

Nhập khẩu hàng hóa quý 1/2019 tăng mạnh

Tổng cục Thống kê cho biết, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I/2019 tính đạt 57,98 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 24,09 tỷ USD, tăng 13,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 33,89 tỷ USD, tăng 6%.

Theo Tổng cục Thống kê, trong quý I có 13 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 69,5% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Cụ thể: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 11,7 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 8,7 tỷ USD, tăng 15,1%; vải đạt 2,8 tỷ USD, tăng 6,4%; điện thoại và linh kiện đạt 2,8 tỷ USD, giảm 15,4%; sắt thép đạt 2,3 tỷ USD, tăng 4,1%; chất dẻo đạt 2,2 tỷ USD, tăng 4,1%; ô tô đạt 1,8 tỷ USD, tăng 103,7%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,5 tỷ USD, tăng 7,8%;kim loại thường đạt 1,5 tỷ USD, giảm 11%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 1,4 tỷ USD, tăng 8,8%; hóa chất đạt 1,2 tỷ USD, tăng 7%; sản phẩm hóa chất đạt 1,2 tỷ USD, tăng 3,5%; xăng dầu đạt 1,2 tỷ USD, giảm 47,6%.

Cán cân thương mại hàng hóa tính chung quý I/2019 tiếp tục xuất siêu 536 triệu USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 7,04 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 7,57 tỷ USD.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ