Cán cân thương mại: đổi chiều trong tháng 5

Mặc dù cán cân thương mại chuyển sang trạng thái nhập siêu 500 triệu đô la Mỹ trong tháng 5 nhưng tính chung năm tháng đầu năm 2018 thì Việt Nam vẫn đang xuất siêu 3,39 tỉ đô la Mỹ.
LINH TRANG
12, Tháng 06, 2018 | 10:11

Mặc dù cán cân thương mại chuyển sang trạng thái nhập siêu 500 triệu đô la Mỹ trong tháng 5 nhưng tính chung năm tháng đầu năm 2018 thì Việt Nam vẫn đang xuất siêu 3,39 tỉ đô la Mỹ.

64f8d_can_can_thuong_mai

 Hoạt động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm của Samsung đã và đang có ảnh hưởng lớn tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam qua từng tháng. Trong ảnh: Nhà máy sản xuất của Samsung tại Bắc Ninh. Ảnh: QUỐC HÙNG

Tháng 5: Cán cân thương mại đảo chiều

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, sau bốn tháng liên tiếp xuất siêu kể từ đầu năm thì sang đến tháng 5-2018, ước tính Việt Nam nhập siêu 500 triệu đô la Mỹ.

Cụ thể, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 5-2018 ước đạt 19,2 tỉ đô la Mỹ, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng 7,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung năm tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 93,09 tỉ đô la Mỹ, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 26,43 tỉ đô la Mỹ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 66,66 tỉ đô la Mỹ - chiếm tới 71,6% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (giảm 0,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2017).

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước: điện thoại và linh kiện đạt 19,5 tỉ đô la Mỹ, tăng 19,8%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 10,9 tỉ đô la Mỹ, tăng 14,2%; hàng dệt may đạt 10,7 tỉ đô la Mỹ, tăng 13,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 6,4 tỉ đô la Mỹ, tăng 29,7%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản, thủy sản cũng tăng khá: thủy sản đạt 3,1 tỉ đô la Mỹ, tăng 11,1%; rau quả đạt 1,7 tỉ đô la Mỹ, tăng 19,6%; gạo đạt 1,6 tỉ đô la Mỹ, tăng 51,1% (lượng tăng 20,4%). Riêng mặt hàng dầu thô, tính chung năm tháng, xuất khẩu giảm cả về lượng (giảm 40%) và kim ngạch (giảm 20,4%) bất chấp việc giá xuất khẩu bình quân tăng 45,3% so với cùng kỳ năm 2017.

Về thị trường, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 17,4 tỉ đô la Mỹ, tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tiếp đến là EU, đạt 16,9 tỉ đô la Mỹ, tăng 13,6%. Trung Quốc đạt 13,8 tỉ đô la Mỹ, tăng 30,8%, trong đó điện thoại và linh kiện gấp hơn năm lần cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 31%; rau quả tăng 16,5%. Thị trường ASEAN đạt 9,8 tỉ đô la Mỹ, tăng 14,1%, trong đó gạo gấp 3,4 lần; sắt thép tăng 52,9%; điện thoại và linh kiện tăng 6,1%.

Ở chiều ngược lại, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 5-2018 ước tính đạt 19,7 tỉ đô la Mỹ, tăng 14,5% so với tháng trước và tăng 7,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung năm tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 89,7 tỉ đô la Mỹ, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 24,2 tỉ đô la Mỹ, tăng 9%. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc, với kim ngạch nhập khẩu đạt 18,7 tỉ đô la Mỹ (tăng 1,1%); ASEAN đạt 12,5 tỉ đô la Mỹ (tăng 11,1%)...

Với kết quả trên, mặc dù cán cân thương mại chuyển sang trạng thái nhập siêu trong tháng 5 nhưng tính chung năm tháng đầu năm thì Việt Nam vẫn đang xuất siêu 3,39 tỉ đô la Mỹ.

Ảnh hưởng lớn từ mặt hàng điện thoại 

Xuất khẩu điện thoại và linh kiện điện tử chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây (kể từ khi Samsung bắt đầu đi vào hoạt động tại thị trường Việt Nam năm 2013), với tỷ lệ trên dưới 20%. Trong số các thị trường nhập khẩu điện thoại và linh kiện từ Việt Nam, Trung Quốc tăng trưởng mạnh nhất với trị giá 1,79 tỉ đô la Mỹ trong bốn tháng đầu năm nay, gấp 5,2 lần cùng kỳ năm ngoái. Liên hiệp châu Âu (EU) vẫn là thị trường tiêu thụ nhóm hàng này lớn nhất của Việt Nam, đạt 4,56 tỉ đô la Mỹ, tăng 28% so với cùng kỳ năm ngoái. Mỹ đứng thứ 3 với trị giá nhập khẩu 1,71 tỉ đô la Mỹ, tăng 23,5%. Do hoạt động sản xuất của Samsung tại Việt Nam còn mang nặng tính gia công nên xuất khẩu nhóm hàng này tăng trưởng sẽ kéo theo nhập khẩu điện thoại và linh kiện điện tử lắp ráp gia tăng. Cụ thể, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này trong bốn tháng đầu năm 2018 đạt 4,28 tỉ đô la Mỹ, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2017. Điện thoại các loại và linh kiện chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc với giá trị 2,56 tỉ đô la Mỹ, tăng 20,1% so với cùng kỳ năm ngoái; nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 1,49 tỉ đô la Mỹ, tăng 4,4%...

Với tỷ trọng lớn như nói trên, hoạt động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm của Samsung đã và đang có ảnh hưởng lớn tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam qua từng tháng. Theo Tổng cục Thống kê, một trong những nguyên nhân khiến Việt Nam nhập siêu trong tháng 5 là do Samsung đã tập trung xuất khẩu các sản phẩm Galaxy S9 và S9+ trong tháng 3-2018, làm cho kim ngạch xuất khẩu điện thoại bắt đầu có xu hướng giảm kể từ tháng 4. Cụ thể, trong tháng 3 (tháng hai sản phẩm trên chính thức lên kệ), xuất khẩu mặt hàng điện thoại của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục 5,26 tỉ đô la Mỹ. Tuy nhiên, hai tháng sau đó, khi sản phẩm này đã hạ nhiệt, xuất khẩu điện thoại của Việt Nam đã giảm mạnh (giảm 33%), chỉ còn khoảng 3,4 tỉ đô la Mỹ mỗi tháng. Theo đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong hai tháng qua cũng bị ảnh hưởng khá mạnh, từ mức 21,1 tỉ đô la Mỹ trong tháng 3 giảm xuống lần lượt còn 18,3 tỉ đô la Mỹ và 19,2 tỉ đô la Mỹ trong tháng 4 và tháng 5. 

Tất nhiên kim ngạch xuất khẩu tổng thể của cả nước chịu tác động từ diễn biến của nhiều mặt hàng khác nữa nhưng không thể phủ nhận mặt hàng điện thoại và linh kiện từ tập đoàn Samsung đang ảnh hưởng không nhỏ tới thành tích xuất khẩu chung trong hai tháng qua. Sau khi trình làng sản phẩm S9 vào tháng 3, sản phẩm tiếp theo của Samsung là Note 9 dự định sẽ được lên kệ vào tháng 8 năm nay. Do đó, riêng đối với mặt hàng điện thoại và linh kiện điện tử, xuất khẩu nhiều khả năng sẽ chỉ khởi sắc và tăng mạnh trở lại kể từ tháng 8 tới. 

Theo TBKTSG

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24620.00 24940.00
EUR 26373.00 26479.00 27646.00
GBP 30747.00 30933.00 31883.00
HKD 3106.00 3118.00 3220.00
CHF 27080.00 27189.00 28038.00
JPY 159.61 160.25 167.69
AUD 15992.00 16056.00 16544.00
SGD 18111.00 18184.00 18724.00
THB 664.00 667.00 695.00
CAD 17987.00 18059.00 18594.00
NZD   14750.00 15241.00
KRW   17.82 19.46
DKK   3544.00 3676.00
SEK   2323.00 2415.00
NOK   2280.00 2371.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ