PCI 2018: Hà Tĩnh tăng hạng ngoạn mục

Nhàđầutư
Sáng 28/3/2019, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2018. Theo đó, tỉnh Hà Tĩnh tăng 10 bậc, từ thứ 33 trong năm 2017 lên thứ 23 trong năm 2018.
NGUYỄN TRANG
28, Tháng 03, 2019 | 12:49

Nhàđầutư
Sáng 28/3/2019, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2018. Theo đó, tỉnh Hà Tĩnh tăng 10 bậc, từ thứ 33 trong năm 2017 lên thứ 23 trong năm 2018.

vu-tien-loc

Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phát biểu tại lễ công bố PCI 2018. Ảnh: Nguyễn Trang

Lần thứ 14 liên tiếp được công bố, Báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2018 là "tập hợp tiếng nói" của đông đảo các doanh nghiệp trong và ngoài nước về chất lượng điều hành và môi trường kinh doanh tại 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Không chỉ công bố bảng xếp hạng về chất lượng điều hành các tỉnh trong năm 2018, cuộc khảo sát có sự tham gia của gần 11.000 doanh nghiệp dân doanh trong nước, 1.500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cung cấp góc nhìn đa dạng về chất lượng giải quyết thủ tục hành chính, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng tại Việt Nam.

quang-ninh

Đây là năm thứ 2 liên tiếp, tỉnh Quảng Ninh giữ vị trí quán quân PCI. Ảnh: Nguyễn Trang

Dẫn đầu bảng xếp hạng PCI 2018 là Quảng Ninh với 70,36 điểm trên thang điểm 100. Kế đến là Đồng Tháp (70,19 điểm), Long An (68,09 điểm), Bến Tre (67,67 điểm). Các tỉnh, thành phố tiếp thep trong nhóm 10 tỉnh, thành phố đứng đầu bao gồm Đà Nẵng, Bình Dương, Quảng Nam, Vĩnh Long, Hà Nội và TP.HCM. Các địa phương trong nhóm xếp hạng cao còn có Cần Thơ, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Tây Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa, Thái Nguyên, Nghệ An và Bình Định...

Lọt top khá trong bảng xếp hạng PCI 2018, tỉnh Hà Tĩnh tăng 10 bậc, từ thứ 33 trong năm 2017 lên thứ 23 trong năm 2018.

PCI - 2018

Tỉnh Hà Tĩnh tăng 10 bậc, từ thứ 33 trong năm 2017 lên thứ 23 trong năm 2018

Điều tra PCI năm 2018 cho biết, mức độ lạc quan của các doanh nghiệp về triển vọng kinh doanh thời gian tới tiếp tục ở mức tương đối cao, 49% doanh nghiệp dân doanh và 56% doanh nghiệp FDI cho biết sẽ mở rộng quy mô kinh doanh trong 2 năm tới. Tuy nhiên, điều tra năm qua cũng cho thấy dấu hiệu giai tăng tỷ lệ doanh nghiệp đang gặp khó khăn trnong hoạt động, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp tư nhân nhỏ avf siêu nhỏ. Trong quá trình, vai trò của các chính quyền cấp tỉnh đang ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết.

Báo cáo PCI năm nay dành một chương riêng đánh giá khả năng hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Kết quả cho thấy, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Một trong những yếu tố đang cản trở tiến trình này chính là sự thiếu vắng cơ chế hiệu quả để đảm bảo thực thi hợp đồng. Đây là lĩnh vực Việt Nam cần có những cải cách đột phá.

Phát biểu tại Lễ công bố, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết: "PCI 2018 đã có những cải thiện đáng kể so với những năm trước đây. Tỉnh trung vị đã đạt điểm số PCI 61,76 điểm, cao nhất trong hơn một  thập kỷ qua, kể từ khi bắt đầu tiến hành PCI".

"Các xu hướng nổi bật đáng mừng của năm 2018 là: chi phí không chính thức giảm, đặc biệt là tham những vặt đã giảm rõ rệt so với thời kỳ trước. Môi trường kinh doanh cũng trở nên bình đẳng hơn. Việc ưu ái doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp tư nhân trong nước đã giảm đáng kể. Các cấp chính quyền tỉnh nhìn chung đã trở nên năng động và sáng tạo hơn. Cải cách hành chính tiếp tục có bước tiến. Đặc biệt việc thanh tra, kiểm tra trùng lặp đã giảm đáng kể so với mấy năm trước. Đó là các tín hiệu cho thấy các nỗ lực cải cách hành chính và chống tham nhũng đã phát huy tác dụng", ông Lộc khẳng định.

Ông Lộc cho biết, mức độ lạc quan và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh vẫn được duy trì ở mức tương đối cao. 49,3% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh. 42,4% doanh nghiệp sẽ tiếp tục duy trì quy mô hiện tại. Chỉ có 8,3% dự kiến giảm quy mô sản xuất kinh doanh hoặc đóng cửa (riêng đối với FDI thì tỷ lệ có kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh cao hơn đạt tới 56%).

Tuy nhiên, theo ông Vũ Tiến Lộc, môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều điểm đáng quan ngại. Chi phí không chính thức giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. 58% doanh nghiệp trong nước vẫn còn bị nhũng nhiễu. 54% doanh nghiệp vẫn phải trả chi phí bôi trơn. Môi trường kinh doanh bình đẳng hơn nhưng vẫn còn không ít gập ghềnh. Vẫn có tới 40% doanh nghiệp cho biết các tỉnh còn ưu tiên, ưu ái doanh nghiệp Nhà nước và FDI hơn các doanh nghiệp tư nhân.

Việc gia nhập thị trường vẫn còn nhiều khó khăn. Có tới trên dưới 30% doanh nghiệp cho biết họ gặp nhiều khó khăn khi xin các giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và các giấy phép phù hợp với tiêu chuẩn và các giấy tờ quy định khác. Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà nhất là trong các lĩnh vực đất đai, thuế, bảo hiểm xã hội, quản lý thị trường, giao thông vận tải … Tính minh bạch, cũng theo phản ánh của doanh nghiệp còn ít được cải thiện. Chất lượng nguồn nhân lực và các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp chưa cao. Các doanh nghiệp dân doanh nhất là các doanh nghiệp siêu nhỏ, vừa và nhỏ đang rất khó khăn.

Do đó, để tiếp tục phát triển khu vực kinh tế tư nhân, việc khắc phục những điểm nghẽn thể chế và chính sách nêu trên vẫn cần là những ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự của Chính phủ và cơ quan chính quyền các cấp.

Triển khai xây dựng và công bố từ năm 2005, PCI là một bộ chỉ số bao gồm nhiều chỉ số thành phần như chi phí gia nhập thị trường, tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất, tính minh bạch, chi phí thời gian, chi phí không chính thức, tính năng động của chính quyền địa phương, môi trường cạnh tranh bình đẳng, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo lao động, thiết chế pháp lý và an ninh trật tự. PCI do một nhóm chuyên gia trong và ngoài nước của VCCI thực diện dưới sự hỗ trợ của USAID.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ