'Nhiều dự án ở Đà Nẵng chậm bàn giao cho địa phương quản lý'

Nhàđầutư
Đó là thông tin được Trưởng Ban Đô thị HĐND TP. Đà Nẵng Nguyễn Thành Tiến cho biết, tại kỳ họp thứ 16, HĐND khóa IX, nhiệm kỳ 2016 - 2021.
PHƯỚC NGUYÊN
08, Tháng 12, 2020 | 10:28

Nhàđầutư
Đó là thông tin được Trưởng Ban Đô thị HĐND TP. Đà Nẵng Nguyễn Thành Tiến cho biết, tại kỳ họp thứ 16, HĐND khóa IX, nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Trình bày báo cáo thẩm tra của Ban Đô thị, ông Nguyễn Thành Tiến, Trưởng Ban Đô thị HĐND TP. Đà Nẵng cho biết, thành phố đang xử lý bất cập, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp khởi động làm dự án. Việc làm này giúp cho trật tự xây dựng được chấn chỉnh, hạn chế tình trạng xây dựng không phép, trái phép trên nhiều khu vực.

Trong năm 2020, TP. Đà Nẵng đã đầu tư xây dựng nhiều công trình xử lý nước thải và cấp nước trọng điểm. Các dự án này ban đầu đã phát huy hiệu quả, hạn chế tình trạng ngập úng cục bộ. 

Theo báo cáo của Trưởng Ban Đô thị HĐND TP. Đà Nẵng, đề án xây dựng TP. Đà Nẵng thành “thành phố môi trường” đã được đánh giá và tổ chức thực hiện theo các tiêu chí mới phù hợp tình hình giai đoạn tới.

Ngoài ra, TP. Đà Nẵng cần củng cố kiện toàn, kết hợp việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý đất đai. Đồng thời, công tác thanh tra, kiểm tra đất đai cũng được tăng cường, đặc biệt là xử lý các dự án chậm đưa đất vào sử dụng, được thực hiện một cách quyết liệt. Đồng thời, các tồn tại vướng mắc trong lĩnh vực đất đai, đang dần được giải quyết, tháo gỡ.  

a

ảnh: Do công tác rà soát quy hoạch triển khai còn chậm, nhiều công trình trở thành dự án treo. Ảnh: Phước Nguyên.

Theo ông Nguyễn Thành Tiến, TP. Đà Nẵng cũng đã triển khai một số biện pháp về giao thông có hiệu quả, trong đó, địa phương đã di dời các tuyến xe buýt liền kề ra ngoài thành phố. Qua đó, việc làm này đã chấm dứt tình trạng mất an toàn giao thông, hạn chế ô nhiễm môi trường cho khu vực trung tâm thành phố.

Bên cạnh đó, trong năm 2020, TP. Đà Nẵng đã phối hợp với Trung ương, khởi công xây dựng nhiều công trình giao thông quan trọng. Bên cạnh đó, thành phố triển khai các thủ tục đầu tư, quy hoạch đối với các công trình giao thông đầu mối. 

Thông qua hoạt động giám sát, Ban đô thị nhận thấy, quản lý nhà nước trong lĩnh vực đô thị năm 2020, vẫn còn tồn tại một số hạn chế và cần có giải pháp khắc phục, trong thời gian đến. 

Cụ thể, việc quy hoạch, quản lý xây dựng, đến nay đồ án điều chỉnh quy hoạch thành phố đến năm 2030, tầm nhìn 2045, vẫn chưa được Thủ tướng phê duyệt, làm ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư và các kế hoạch của địa phương. 

Theo đó, việc lập thiết kế đô thị tại khu vực ven biển triển khai còn chậm. Công tác quản lý không gian đô thị chưa theo kịp thực tiễn. Cơ sở hạ tầng ở một số khu vực đã có dấu hiệu quả tải. 

Chương trình phát triển nhà ở đến năm 2020 và định hướng 2030, triển khai còn chậm và nhiều bất cập, nhất là quy hoạch địa điểm, chọn lựa nhà đầu tư.

Đối với cải cách hành chính, việc triển khai quy hoạch xây dựng của thành phố vẫn còn chậm, chưa có sự phối hợp giữa các sở ban ngành để đảm bảo tính đồng bộ.

Bên cạnh đó, công tác rà soát quy hoạch triển khai còn chậm, chưa đảm bảo thời gian quy định của pháp luật, dẫn đến việc nhiều dự án chậm triển khai và trở thành dự án treo. 

Ông Nguyễn Thành Tiến, Trưởng Ban Đô thị HĐND TP. Đà Nẵng nhận định, những dự án chưa được rà soát, xử lý kịp thời làm ảnh hưởng đến quyền lợi người dân trong vùng dự án. 

Qua đó, việc xử lý các dự án còn dở dang hạ tầng, chưa giải quyết dứt điểm, trong khi đó khối lượng còn lại không nhiều. Nhiều dự án chậm bàn giao cho địa phương quản lý,làm giảm hiệu quả đầu tư, khiến các công trình xuống cấp, gây bức xúc cho người dân.

Ngoài ra, theo ông Nguyễn Thành Tiến, công tác di dời người dân ở các khu chung cư, tập thể xuống cấp vẫn còn lúng túng, gặp nhiều bất cập. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ