Ngành thủy sản Việt Nam đứng trước nguy cơ bị EU rút “thẻ vàng”

Đây là cảnh báo từ Ủy ban hải sản VASEP trước tình hình EU có khả năng áp dụng “thẻ vàng” đối với các DN xuất khẩu từ Việt Nam bởi những vi phạm trong cam kết IUU.
NGUYỄN TRANG
28, Tháng 09, 2017 | 14:23

Đây là cảnh báo từ Ủy ban hải sản VASEP trước tình hình EU có khả năng áp dụng “thẻ vàng” đối với các DN xuất khẩu từ Việt Nam bởi những vi phạm trong cam kết IUU.

DSC_0912

 Hội nghị “Doanh nghiệp Hải sản Cam kết Chống Khai thác IUU”

Thông tin trên được đưa ra tại hội nghị "Doanh nghiệp hải sản cam kết chống khai thác IUU", do Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tổ chức ngày 25-9 tại TP.HCM.

IUU là cam kết giữa Việt Nam với các nước trong việc chấp hành những quy định đánh bắt hải sản an toàn trên biển.

Bà Nguyễn Thị Thu Sắc - Phó chủ tịch Hiệp hội VASEP, Chủ tịch Ủy ban Hải sản VASEP cho biết, nếu bị rút “thẻ vàng” thì thực sự là một thiệt hại nặng nề đối với xuất khẩu hải sản của Việt Nam vào EU, và tiếp theo là ở nhiều thị trường quan trọng khác như Mỹ.

Theo Thứ trưởng Vũ Văn Tám – Bộ NN & PTNT, vấn đề IUU hiện nay rất nghiêm trọng. Đứng trước nguy cơ bị “thẻ vàng”, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín ngành thủy sản Việt Nam, quốc gia Việt Nam và tình hình XK sang thị trường EU và các thị trường khác. Trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản của Việt Nam hằng năm với 1,9-2,2 tỉ USD, EU và Mỹ mỗi thị trường chiếm 16-17% (350-400 triệu USD).

Theo quy định, sau khi bị cảnh báo “thẻ vàng”, nước bị cảnh báo sẽ có 6 tháng khắc phục các thiếu sót. Nếu 6 tháng không có cải thiện theo đánh giá của EU sẽ bị chuyển sang cảnh báo “thẻ đỏ”, đồng nghĩa với bị cấm xuất khẩu các mặt hàng hải sản khai thác sang EU.

Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó tổng thư ký VASEP cho hay, thiệt hại của việc "dính thẻ vàng" với doanh nghiệp là rất nặng nề. 

Cụ thể, nếu Việt Nam bị nhận "thẻ vàng" từ châu Âu đồng nghĩa các nước trong khối này sẽ áp dụng các quy định kiểm soát nghiêm ngặt như toàn bộ các container hải sản xuất sang EU sẽ bị giữ lại từ 3 - 4 tuần để kiểm tra nguồn gốc khai thác với phí kiểm tra khoảng 500 Bảng Anh (hơn 15 triệu đồng) mỗi container, chưa kể phí lưu giữ cảng và hệ lụy kinh doanh của đối tác khách hàng. 

Thậm chí, hàng có thể sẽ bị từ chối và trả về Việt Nam, gây tổn thất nặng nề. "Nhưng rủi ro nhất là tỉ lệ lớn các lô hàng bị từ chối thông quan và trả lại hàng. Ví dụ Philippines có đến 70% số container bị trả về, thiệt hại có thể lên đến 10.000 euro/container" - Ông Nam nói.

Bộ NN & PTNT phối hợp với VASEP đã hành động quyết liệt trong thời gian qua như tham mưu Chính phủ ban hành Công điện 732, khẳng định phải sớm chấm dứt tình trạng tàu cá ngư dân vi phạm khai thác bất hợp pháp tại vùng biển các nước. Giao cho chủ tịch UBND các tỉnh chịu trách nhiệm nếu để tàu cá địa phương mình đi khai thác bất hợp pháp ở các nước khác.

Ông Vũ Văn Tám – Thứ trưởng Bộ NN & PTNT cho rằng, khả năng EU rút “thẻ vàng” đối với ngành thủy sản Việt Nam có thể xảy ra. Lúc đó chúng ta cần cố gắng để sớm thoát ra, đồng thời coi đây là cơ hội để tổ chức lại sản xuất, xây dựng nghề cá có trách nhiệm và phát triển bền vững.

Hội nghị cũng đã thông qua quy chế hoạt động của chương trình DN hải sản cam kết chống khai thác IUU, chương trình hành động và ngân sách dự kiến. Các DN tại hội nghị đều nhất trí thực hiện cam kết chống khai thác IUU, thông qua kế hoạch  hành động và quỹ chống khai thác IUU.

Do vậy, các DN cần gấp rút và nghiêm túc thực hiện các quy định của IUU. Bên cạnh đó, Bộ NN & PTNT cũng như các bộ ngành liên quan sẽ nỗ lực để làm việc với các cơ quan chức năng EU nhằm hỗ trợ DN, kéo dài thời hạn rút thẻ vàng để DN có thêm thời gian chuẩn bị.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ