HSBC Việt Nam lãi kỷ lục 3.100 tỷ đồng

Nhàđầutư
Không chỉ các ngân hàng nội, nhiều nhà băng ngoại cũng "ăn nên làm ra" trong bối cảnh kinh tế vĩ mô của Việt Nam diễn biến ổn định.
XUÂN TIÊN
29, Tháng 03, 2019 | 07:00

Nhàđầutư
Không chỉ các ngân hàng nội, nhiều nhà băng ngoại cũng "ăn nên làm ra" trong bối cảnh kinh tế vĩ mô của Việt Nam diễn biến ổn định.

Ngân hàng TNHH MTV HSBC Việt Nam vừa công bố báo cáo tài chính kiểm toán năm 2018. Theo đó, nhà băng ngoại này tiếp tục trải qua một năm thành công, với ưu thế về biên độ lợi nhuận rất lớn từ nghiệp vụ kinh doanh chính là "buôn tiền".

Cụ thể, thu nhập lãi trong năm đạt 3.779 tỷ đồng, trong khi chi phí lãi chỉ ở mức 305,5 tỷ đồng, mang về khoản thu nhập lãi thuần lên tới 3.474 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, dịch vụ, ngoại hối và chứng khoán đầu tư tiếp tục là thế mạnh của HSBC Việt Nam khi mang về khoản lãi lần lượt 783 tỷ đồng, 672 tỷ đồng và 185 tỷ đồng.

Screen Shot 2019-03-28 at 7.40.32 PM

 

Trừ đi chi phí hoạt động (2.022 tỷ đồng) và dự phòng rủi ro tín dụng (60 tỷ đồng), HSBC báo lãi trước thuế 3.097 tỷ đồng, cao hơn 39% so với năm 2017. Lãi sau thuế là 2.469 tỷ đồng. Tỷ suất lãi sau thuế trên vốn điều lệ đạt tới 1/3 - là con số rất ấn tượng.

Tới cuối năm vừa qua, tổng tài sản của HSBC vượt mốc 100.000 tỷ đồng, đạt 100.733 tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng 15% trong năm. Trong đó cho vay khách hàng 44.111 tỷ đồng, tiền gửi và cho vay TCTD khác là 33.533 tỷ đồng, gửi tại Ngân hàng Nhà nước 11.521 tỷ đồng.

Screen Shot 2019-03-28 at 7.43.39 PM

 

Bên kia bảng cân đối kế toán, huy động khách hàng chiếm phần lớn tổng nguồn vốn, với số dư 85.072 tỷ đồng, còn lại chủ yếu là vốn chủ sở hữu (12.143 tỷ đồng), gồm vốn điều lệ (7.528 tỷ đồng), quỹ (2.169 tỷ đồng) và lợi nhuận chưa phân phối (2.446 tỷ đồng).

Tới cuối năm 2018, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) duy trì ở mức 14%, nợ quá hạn là 661 tỷ đồng, nợ xấu là 332 tỷ đồng, tương đương tỷ lệ 0,44%.

HSBC Việt Nam là ngân hàng nước ngoài đầu tiên được thành lập ở Việt Nam (năm 2009). Tuy nhiên định chế tài chính hàng đầu thế giới đã có mặt từ trước đó rất lâu, từ văn phòng đại diện tại Sài Gòn năm 1870 và mở chi nhánh tại TP.HCM năm 1995. 

Hiệu quả hoạt động của HSBC phản ánh rõ nét tiềm năng của thị trường Việt Nam đối với các nhà băng ngoại. Nhận thức được điều này, nhiều ngân hàng nước ngoài đang ra sức mở rộng thời gian qua. 

Trung tuần tháng Ba, NHNN đã chấp thuận cho Bank of China (Hong Kong) chi nhánh TP.HCM tăng vốn từ 100 triệu USD lên 180 triệu USD, Industrial Bank of Korea chi nhánh Hà Nội tăng vốn từ 90 triệu USD lên 120 triệu USD và Siam Commercial Bank của Thái Lan.

Trong năm 2018, United Overseas Bank (UOB) của Singapore đã nâng cấp chi nhánh tại Việt Nam lên thành ngân hàng con và trở thành nhà băng 100% vốn nước ngoài thứ 9 tại Việt Nam, bên cạnh HSBC (HongKong), ANZ (Úc), Standard Chartered (Anh), Shinhan Bank (Hàn Quốc), Hong Leong Bank (Malaysia), CitiBank, CIMB (Malaysia), Public Bank Berhad (Malaysia).

Lượng chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng không ngừng gia tăng với sự góp mặt của nhiều gương mặt mới như Kookmin Bank chi nhánh Hà Nội với mức vốn được cấp là 35 triệu USD. 

Các định chế tài chính nước ngoài cũng liên tục mở rộng vùng phủ sóng tại thị trường Việt Nam trong năm qua. Chẳng hạn, cuối năm 2018, UOB Việt Nam đã mở thêm chi nhánh tại Hà Nội. Public Bank Việt Nam cũng mở thêm 3 chi nhánh và 2 phòng giao dịch, nâng mạng lưới giao dịch của mình lên 18 chi nhánh, phòng giao dịch tại các tỉnh, thành phố lớn của Việt Nam.

Hay như Woori Bank Việt Nam cũng mở thêm 5 chi nhánh và 1 PGD mới, chủ yếu tại các tỉnh có khu công nghiệp lớn như Thái Nguyên, Hà Nam, Bình Dương. Hiện ngân hàng 100% vốn nước ngoài có mạng lưới lớn nhất tại Việt Nam chính là Shinhan Bank. Với việc mở thêm 4 chi nhánh và PGD mới tại 2 thành phố lớn nhất nước trong năm qua, hiện tổng số điểm giao dịch của ngân hàng này trên toàn quốc là 30.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24620.00 24940.00
EUR 26373.00 26479.00 27646.00
GBP 30747.00 30933.00 31883.00
HKD 3106.00 3118.00 3220.00
CHF 27080.00 27189.00 28038.00
JPY 159.61 160.25 167.69
AUD 15992.00 16056.00 16544.00
SGD 18111.00 18184.00 18724.00
THB 664.00 667.00 695.00
CAD 17987.00 18059.00 18594.00
NZD   14750.00 15241.00
KRW   17.82 19.46
DKK   3544.00 3676.00
SEK   2323.00 2415.00
NOK   2280.00 2371.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ